Bát Nhã Tâm Kinh, hay còn được gọi là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, là một trong những bài kinh quan trọng của Phật Giáo Đại Thừa. Được xem là một trong những bài kinh cốt lõi của Bát Nhã, Bát Nhã Tâm Kinh đã được dịch và truyền bá từ Ấn Độ sang Trung Hoa từ những thế kỷ 2 TCN đến thế kỷ 6 CN. Bản dịch của Huyền Trang được coi là phổ biến nhất.
Bát Nhã Tâm Kinh đã được dịch và sử dụng rộng rãi tại Việt Nam bằng chữ Hán Việt. Nhiều tác giả đã xuất bản các sách giải thích ý nghĩa của kinh này, trong đó có các tác giả nổi tiếng như Thích Thiện Hoa, Thích Thanh Từ, và Thích Nhất Hạnh.
Hãy cùng tìm hiểu về ý nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh qua bài giảng của HT Tuyên Hoá: Giảng Bát Nhã Tâm Kinh
Nguồn gốc của Bát Nhã Tâm Kinh
Vào khoảng thế kỷ thứ 7, ngài Trần Huyền Trang, một cảnh sát đời nhà Đường, Trung Hoa đã vượt biên sang Ấn Độ để thỉnh kinh. Khi trở về, ngài viết quyển sách "Tây Du Ký" ghi lại những chi tiết xảy ra trong suốt thời gian 12 năm đi qua khắp Ấn Độ từ Bắc xuống Nam và qua tới Tịch Lan. Trong chuyến đi đó, có một sự kiện đặc biệt khi ngài bị mất mạng khi lạc vào sa mạc bão cát, nhưng may mắn gặp một người áo trắng dạy bài Bát Nhã Tâm Kinh bằng tiếng Ấn Độ, ngài đã tụng đọc và thoát chết. Sau cùng, ngài đã đến được Ấn Độ bình an. Qua sự kiện này, người ta đoán vị áo trắng đó là Đức Quan-Thế-Âm Bồ Tát.
Bài Bát Nhã Tâm Kinh thuộc hệ Phát Triển và được viết bằng tiếng Sanskrit, là một trong những bài kinh quan trọng trong hệ thống Bát Nhã của Phật Giáo. Tuy không biết rõ tác giả của hệ thống kinh Bát Nhã, nhưng người ta biết rằng hệ thống kinh Bát Nhã Bá-La-Mật phát xuất từ miền Nam Ấn Độ trước Công Nguyên.
Trong lịch sử Phật Giáo, có một sự kiện có thể đưa ra suy đoán về nguồn gốc của hệ Bát Nhã Bá-La-Mật.
Khoảng 236 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, đất nước Ấn Độ dưới sự cai trị của vua A-Dục, một vị vua rất sùng mộ đạo Phật, đã hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển của Phật Giáo cũng như nhiều tôn giáo khác.
Vào thời điểm đó có một vị cảnh sát là ngài Đại Thiên, trụ trì tại một ngôi chùa lớn ở kinh đô rất giỏi Phật pháp. Một lần trong buổi thuyết pháp có sự tranh cãi về vấn đề ai thuyết pháp giỏi nhất, ngài Đại Thiên đã tuyên bố: "Những ai thuyết pháp giỏi đúng với chánh ý Đức Phật thì người đó có quyền viết kinh!" Lời công bố này được một số người trẻ tán thành, nhưng cũng có nhiều người phản đối. Cuối cùng, vấn đề này không được giải quyết ổn thoả, ngay cả vua A-Dục và Hoàng Hậu, mặc dù ủng hộ ngài Đại Thiên nhưng không thể giải quyết được vấn đề trọng đại này. Sau đó, ngài Đại Thiên cùng đệ tử xuống miền Nam Ấn giáo hóa và thành lập nên hệ Bát-Nhã. Đó là lý do tại sao hệ thống kinh Bát Nhã Bá-La-Mật xuất phát từ miền Nam Ấn. Hệ thống kinh này đã trải qua nhiều thời đại, kéo dài hơn mấy trăm năm, các vị Tổ đã lần lượt sáng tác các bộ kinh được xếp vào hệ thống kinh Bát Nhã, nhưng không có bộ kinh nào ghi tên tác giả.
Nhìn chung, hệ thống kinh Bát Nhã đòi hỏi tư duy "không" và "chân như". Các vị Tổ lấy ý niệm "không" và "chân như" làm căn cứ để tu tập, tiến đến thể nhập "không" và thể nhập "chân như". Ngoài ra, trong hệ thống kinh Bát Nhã còn đòi hỏi một chủ đề nữa là Huyền. Tóm lại, các chủ đề "chân như", "không" và "huyền" có thể coi là ba gốc đại diện cho tri tuệ Bát Nhã nhìn về hiện tượng thế giới trong đó có con người.
Trong hệ thống kinh Bát Nhã, tác phẩm cuối cùng được dịch ra là "Bát Nhã Tâm Kinh" hoặc "Bát Nhã Bá-La-Mật Đa Tâm Kinh". Đây là bản dịch theo âm Hán Việt. Bài này gồm 262 chữ và được coi là bài kinh ngắn nhất trong hệ thống kinh Bát Nhã Bá-La-Mật.
Dưới đây là một số bài dịch Việt-Anh của Bát Nhã Tâm Kinh:
Bát Nhã Tâm Kinh bản tụng Hán Việt:
Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Bá-La Mật đa thời Chiếu kiến ngũ uẩn giải không Độ nhất thiết khổ ách
Xá Lợi Tử, sắc bất dị khônɡ Khônɡ bất dị sắc, sắc tức thị khônɡ Khônɡ tức thị sắc, thọ tưởnɡ hành thức Diệc phục như thị
Thị chư pháp khônɡ tướnɡ, bất sinh bất diệt Bất cấu bất tịnh, bất tănɡ bất ɡiảm Thị cố khônɡ trunɡ vô sắc, vô thọ tưởnɡ hành thức Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thɑnh hươnɡ vị xúc pháp, vô nhãn ɡiới nãi chí vô ý thức ɡiới Vô vô minh, diệc vô vô minh tận Nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận Vô khổ, tập, diệt, đạo Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố
Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Bá-La Mật đa cố Tâm vô quái nɡại, vô quái nɡại cố Vô hữu khủnɡ bố, viễn ly điên đảo mộnɡ tưởnɡ Cứu cánh Niết Bàn Tâm thế chư Phật, y Bát nhã Bá-La Mật đa cố Đắc A nậu đa lɑ Tâm miệu Tâm bồ đề
Cố tri Bát nhã Bá-La Mật đa Thị điểu thần chú, thị điểu minh chú Thị vô thượnɡ chú, thị vô đẳnɡ đẳnɡ chú Năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư Cố thuyết Bát nhã Bá-La Mật đa chú Tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, Bá-La yết đế Bá-La tănɡ yết đế, Bồ đề tát bà hɑ
Bát Nhã Tâm Kinh bản dịch nghĩa:
Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về tri thức Bát Nhã Bá-La Mật, thì nhận ra rằng năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khó khăn và nạn đau ách. Đây là Xá Lợi Tử, sắc không khác gì không, không không khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Đây là Xá Lợi Tử, tưởng không của các pháp cũng không sinh cũng không diệt, không cái gì cũng không tịnh, không tăng cũng không giảm. Do đó mà trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân ý. Không có sắc, thành, hương vị, xúc pháp. Không có giới hạn của mắt, đến không ý thức, không có ý thức giới. Không có vô minh, nhưng không có hết vô minh. Không có lão tử, nhưng không có hết lão tử. Không khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc. Khi vị Bồ Tát nương tựa vào tri thức Bát Nhã này, thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xả liễm được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn tuyệt đối. Tâm thế của chư Phật, dựa vào Bát Nhã Bá-La Mật này, đạt A nậu đạ la Tâm miệu Tâm bồ đề cố. Cố tri Bát Nhã Bá-La Mật đầy, đó là chú thần đại, chú minh đại, chú vô thượng, chú vô đẳng đẳng, năng trừ mọi khổ, chân thật không hư. Cố nói Bát Nhã Bá-La Mật đầy chú, tức là đọc chú rằng:
Yết đế yết đế, Bá-La yết đế Bá-La tăng yết đế, Bồ đề tát bà hɑ (Qua rồi, qua rồi, qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!)
Bát Nhã Tâm Kinh bản phổ kệ:
(Bạn tu theo nguyện và pháp thoại của Thích Nhất Hạnh)
Bồ Tát Quán Tự Tại, khi thực hành sâu trong Bát Nhã Bá-La Mật (hay còn gọi là Phật pháp Diệu Pháp Trí Độ), nhìn thấy rằng năm uẩn đều không có tự tánh. Thực chứng điều đó rồi tiễn cụm khốn khó khịt.
Nghe đây, Xá Lợi Tử: Sắc không khác gì không, không không khác gì sắc. Sắc chính là không, không chính là sắc. Còn lại bốn uẩn, đều như nhau.
Xá Lợi Tử, nghe đây: Mọi pháp đều không tưởng. Không sinh cũng không diệt. Không nhơ cũng không sạch. Không thêm cũng không bớt.
Vì thế mà trong chương không, không có sắc, thọ, tưởng, hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân ý. Không có sắc, thành, hương vị, xúc, pháp. Không có mười tám giới, từ mắt đến ý thức. Không hề có vô minh, không hề có cả vô minh. Không có khi già cũng không có khi chết. Không khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí thì không có đắc, vì không có sở đắc.
Khi một vị Bồ Tát tu theo Diệu Pháp Trí Độ (Bát Nhã Bá-La Mật), thì tâm không còn ngại ngùng, và không còn băn khoăn sợ gì. Tâm đã thấy thông suốt, dẫn đường giải thoát tới bên kia bến bờ.
Chư Phật bảo đời sau đây, nhờ vào Diệu Pháp Trí Độ (Bát Nhã Bá-La Mật) mà đạt quả vô thượng, chánh giác. Vậy nên hãy biết rằng Bát Nhã Bá-La Mật là một chú tinh tú, là một chú tinh thần, là một chú vô thượng, là một chú tuyệt đỉnh. Đó là chân lý không vương đến bất kỳ khó khăn nào.
Cho nên tôi xin giảng thuyết câu chú Diệu Pháp Trí Độ,Bát Nhã Bá-La Mật, với hy vọng rằng bạn sẽ đọc chú này:
Yết đế, yết đế, Bá-La yết đế, Bá-La tăng yết đế, Bồ đề tát bà hɑ.