Hòa Thượng: Một Cuộc Hành Trình Đầy Niềm Tin
"Thuở nhỏ ở nhà, lúc đó khoảng 12-13 tuổi, tôi đã tự mình niệm Phật", Hòa thượng kể. "Tôi đọc trong Tây phương trực chỉ, thấy có nói hễ niệm được 300 ngàn câu Phật thì được vãng sanh Cực Lạc. Tôi tin mà làm. Nhưng vì sao tin thì tôi không biết!"
Hòa thượng, sinh năm 1917 trong một gia đình nhà nông chân chất tại Sa Đéc (Đồng Tháp), từ thuở nhỏ đã có niềm tin và niệm Phật sâu sắc. Thân phụ của Hòa thượng qua đời từ lúc ngài lên ba, đến năm lên bảy thì thân mẫu cũng tạ thế, Hòa thượng sống với người anh thứ ba.
"Lúc tôi biết mến đạo là vào khoảng năm 1928, thời điểm người ta bắt đầu xây dựng Thánh thất Cao Đài ở Tây Ninh. Một số người bà con của tôi cũng ở gần đó, theo Cao Đài, để tóc bới và ăn chay trường . Tôi cũng ăn chay trường một mình ở nhà, thường ăn với nước cơm, nước muối. Bởi hễ thấy thịt cá là tôi nhớ ngay đến cảnh người ta đánh vảy, cắt cổ, làm thịt nên không ăn được".
Hòa thượng không theo Cao Đài vì cảm thấy "không hạp", dù ngài vẫn thường mượn các sách Thông thiên học của mấy thầy cô giáo để đọc.
"Tôi tin pháp môn niệm Phật, không lúc nào quên đạo Phật, nhưng lại vô chùa không được, vì chùa lúc nào cũng tối om om, tượng thì ông nào cũng đội khăn đỏ trên đầu, chỉ có một đốm sáng nơi lỗ mũi, về nhà thấy muốn nóng lạnh. Ngoài đường thì có một ông thầy đi trước, thằng nhỏ theo sau, đầu đội cái thúng, trong để chuông mõ, tượng Phật và đồ minh khí để đốt. Tôi nghĩ tu hành gì kỳ vậy nên không mến được!"
Một Hành Trình Chính Phục Kiến Thức Và Tìm Đến Niềm Tin
Năm 15, 16 tuổi, Hòa thượng hết tuổi học trường Pháp Việt, qua cấp khác thì không đủ điều kiện, nên quyết định học nghề - từ học sửa xe đạp đến học sửa đồng hồ rồi theo người anh làm không công để học thuốc. Nhờ đọc sách thuốc mà Hòa thượng dần dần thông chữ Hán. Trong khi đó, gia đình người anh thường xảy ra cảnh lục đục nên Hòa thượng có ý xuất trần. "Tôi muốn đi lắm, nhưng cha mẹ không có, tôi đang ở với anh chị nên cũng khó. Tôi lại còn người chị thứ sáu - bây giờ chị vẫn còn sống - hai chị em hủ hỉ có nhau, vui buồn chia sớt, nếu đi thì bỏ chị lại. Tôi học nghề, nghĩ rằng nếu chị ở vậy thì hai chị em có thể nuôi nhau".
"Đến năm tôi 20 tuổi, chị lập gia đình. Tôi bắt đầu tính chuyện giải thoát thế gian. Nghe người ta nói ở Thất Sơn - Tà Lơn có nhiều người tu theo đạo Phật, có chùa, am, cốc, nên tôi bèn dò la, biết được chùa am chủ yếu tập trung ở Núi Cấm. Đầu năm 21 tuổi, tôi bỏ nhà lên núi, để lại lá thơ chớ không cho ai biết. Lúc đó nhằm ngày 14-2-Đinh Sửu. Khoảng hơn 2 giờ chiều thì tới chân núi, tôi quăng guốc chạy chân không, cảm thấy lòng nhẹ nhõm như không còn gì dính líu. Chạy rát chân thì đứng lại, leo lên gộp đá bên đường ngó bốn phía, tôi khấn vái rằng mình là người phàm mắt thịt, không biết đâu thánh phàm, nguyện ơn trên chỉ dẫn, cứ một mặt phía truớc mà bước đi, gặp chỗ nào thì ở đó chớ không chọn lựa".
Đến Vạn Đức Thủ Đức - Bước Chân Đến Niềm Tin
"Khoảng hơn 5 giờ thì tôi tới Vạn Linh, nghe nói thầy đang ở ngoài cốc, đến tối mới gặp được. Sau thời Tịnh độ, thầy vào ngồi bên bàn, bóng đèn leo lét. Tôi đứng một bên; năm, bảy huynh đệ đứng bên kia thưa chuyện. Thầy chỉ tôi mà mắt nhìn mấy huynh đệ, nói: “Mấy đứa bây đừng coi thường cái thằng nay nghe. Đời trước nó là Hòa thượng, bây giờ nó cũng sẽ là Hòa thượng đó!". Thầy nói thêm một mình: “Làm Hòa thượng nhưng nó cũng thích nhìn con gái lắm, nên sẽ bị tật con mắt suốt đời không hết”. Mấy tiếng này thầy nói chậm lắm. “Này, coi sửa soạn mai rằm cho nó tu!”. Tôi nghe vậy thì mừng lắm, không nghĩ đến việc bịnh tật hay Hòa thượng gì cả, mà cũng không biết Hòa thượng là gì, được chấp nhận cho ở chùa tu là mừng lắm rồi!”.
Hòa thượng đã được thầy cho một cơ hội tin tưởng, mở ra một hành trình tu tập đầy tâm huyết. Cùng với các huynh đệ khác, Hòa thượng đã học tập và rèn luyện không ngừng, trở thành một Phật tử đích thực.
Pháp Tu Tịnh Độ - Mở Ra Cánh Cửa Vạn Lạc
Hòa thượng đã đạt được niềm tin sâu sắc trong niệm Phật. Ông không ngừng chia sẻ những lời dạy của mình về pháp tu Tịnh Độ.
"Pháp môn trì danh niệm Phật đơn giản lắm", HT nói. "Trước hết, luôn luôn phải có lòng tin. Tin ở nơi lời giới thiệu của Đức Phật Thích Ca về Cực Lạc thế giới của Đức Phật Di Đà là chơn thật; tin vào y báo, chánh báo của cảnh giới ấy, vì đó là chỗ mà tất cả chúng sanh và các bậc Thánh đều phải nên về. Qua đó, chúng ta có thể đạt đến cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật".
Hòa thượng cũng nhấn mạnh về tính đơn giản và dễ dàng của trì danh khi niệm Phật. "Niệm Phật không chỉ là việc của các Thánh hiện thân, mà cả những người phàm tục cũng có thể niệm Phật. Chỉ cần niệm đúng theo "Nam Mô A Di Đà Phật" mà hành trì".
Đồng thời, Hòa thượng cũng chia sẻ về tầm quan trọng của việc tin tưởng và kiên nhẫn. "Pháp môn trì danh dễ nhưng hành trì không dễ. Phải tin sâu, nguyện thiện và công hạnh phải chuyên cần thì mới đạt được hiệu quả. Niệm Phật phải chính xác, rõ ràng và đều đặn. Khi niệm đã đắc lực thì tự nhiên trong tâm mình nổi lên tiếng niệm Phật mà mình không cần đề khởi, không cần nghĩ đến nó vẫn tự niệm. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua sự kiên nhẫn và thực hành đều đặn".
Vạn Đức Thủ Đức - Nơi Gắn Kết Cảm Xúc Và Niềm Tin
Năm 1955, Hòa thượng thành lập Cực Lạc Liên hữu tại chùa Vạn Đức (Thủ Đức), khuyến khích mọi người niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh Độ. Chùa Vạn Đức trở thành nơi thầy trò gắn kết, tu tập và chia sẻ niềm tin.
Hòa thượng đã đóng góp lớn cho việc phát triển tu tập tại Vạn Đức. Nơi đây đã tạo nên một phong trào tu tập mạnh mẽ, giúp nhiều người quy hướng Tịnh Độ.
Chùa Vạn Đức - một ngôi chùa đậm chất tâm linh, nơi mọi người tìm đến niềm an lành, sự đồng cảm và niềm tin.