Xem thêm

Ý nghĩa ngày Đức Phật Thích Ca xuất gia

Phap Ngo Thich
Sự hóa độ rộng lớn và cùng khắp của đức Phật Là những người con Phật không ai lại có thể quên được ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch là ngày xuất gia của...

Sự hóa độ rộng lớn và cùng khắp của đức Phật

Là những người con Phật không ai lại có thể quên được ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch là ngày xuất gia của Đấng Giác ngộ. Thế là cứ vào ngày này hằng năm, Phật tử ở khắp mọi nơi trên thế giới lại thành tâm làm lễ kỷ niệm ngày xuất gia của Đức Từ Phụ.

Lịch sử Phật xuất gia

Ngược dòng lịch sử, vào năm 623 trước công nguyên, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbinī) gần thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), hiện nay là vùng biên giới giữa Nepan và Ấn Độ. Đức Phật Thích Ca đã giáng sinh có tên là Tất Đạt Đa (Siddhārtha Gautama), là một vị Thái tử con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và Hoàng hậu Ma Da (Māyādevī) đang trị vì một vương quốc nhỏ của bộ tộc Thích Ca (Sākya).

Ngay lúc sinh ra, Thái Tử đã có đầy đủ hảo tướng. Các nhà tiên tri cho rằng Thái Tử sẽ trở thành hoặc một đại đế hay một Bậc giác ngộ. Vua cha Tịnh Phạn không muốn con đi tu nên dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, nhất là không để cho tiếp xúc với cảnh khổ, bao bọc Thái Tử trong cung vàng điện ngọc, cho kết hôn với công chúa Da-du-đà-la (Yásodharā).

Năm lên mười, nhân ngày lễ Tịch Điền, Thái tử theo vua cha Tịnh Phạn ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh xuân, mới nhìn qua, thật là đẹp mắt, nhưng tâm hồn Thái tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét đoán nông nổi. Trái lại, Ngài nhìn sâu vào trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cõi đời không đẹp đẽ an vui như khi mới nhìn qua. Ngài thấy người nông phu và trâu bò phải làm việc cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn trùng đang giãy giụa trên những luống đất mới cày. Cũng trong lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con chim, và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang rình bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không phút giây nào ngừng! Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rõ ràng rằng sự sống là khổ.

Một lần khác, Ngài xin phép vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa Ðông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, lưng còng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngã. Ðến cửa Nam, Ngài thấy một người ốm nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng. Ðến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái xác chết nằm giữa đường, ruồi nhặng bu bám, trương phình lên, trông rất ghê tởm. Ba cảnh khổ già, bệnh, chết, cộng thêm cảnh tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái tử đã chứng kiến hôm lễ Tịch Điền, khiến Ngài đau buồn, thương xót chúng sinh vô cùng.

Một lần khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tĩnh thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử trong lòng nẩy sinh một niềm cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vã đến chào và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa môn đáp: “Tôi tu hành là quyết dứt bỏ mọi sự ràng buộc của cuộc đời, cầu thoát khổ, viên thành chính giác để phổ độ chúng sinh đều được giải thoát.” Lời đáp đúng với hoài bão mà Thái tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về cung xin vua cha cho mình xuất gia. Vua Tịnh Phạn không đồng ý. Thái tử bèn yêu cầu vua cha 4 điều, nếu vua giải quyết được thì Ngài hoãn việc đi tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn điều đó là:

  1. Làm sao cho con trẻ mãi không già
  2. Làm sao cho con khoẻ mãi không bệnh
  3. Làm sao cho con sống mãi không chết
  4. Làm sao cho mọi người hết khổ

Vua cha vô cùng bối rối, không giải quyết được điều nào cả và khi biết được ý định xuất gia của Thái tử, Vua Tịnh Phạn lại càng lo sợ, lại tìm hết cách để ngăn cản, ràng buộc Ngài trong “cung vui”. Nhưng một khi Thái tử đã quyết thì không có sức mạnh gì ngăn trở được Ngài. Thái tử nuôi dưỡng quyết tâm từ bỏ gia đình, xuất gia cầu đạo.

Với Thái tử, lâu đài, cung điện không còn là nơi ở thích hợp nữa. Lòng Ngài nặng trĩu tình thương chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ. Thái tử càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, đi tìm con đường cứu khổ cho muôn loài. Thế rồi vào một đêm Thái tử ra lệnh cho người hầu là Xa-nặc (Chandaka) dắt con ngựa Kiền-trắc ra khỏi tàu ngựa. Trước khi đi, Thái tử đến trước phòng Thái phi và người con trai đang ngủ thiếp. Thái tử hé cửa nhìn vào, Thái tử rất yêu thương vợ con, nhưng đối với nhân loại đang đau khổ bất hạnh, lòng thương xót của Thái tử lại còn da diết hơn. Ngài càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, đi tìm con đường cứu khổ cho muôn loài. Sau đó, Thái tử một mình lên ngựa ra đi, vượt khỏi hoàng thành, theo sau chỉ có người hầu Xa- nặc.

Ra đi, Thái tử từ bỏ tất cả, phụ vương, ngai vàng, vợ con, cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc của một vị vương giả. Không phải là sự hy sinh từ bỏ của một người già đau ốm, một người nghèo, bệnh tật, ngán ngẫm cuộc đời, mà là sự hy sinh từ bỏ của một vị hoàng tử đang tuổi thanh xuân, đang sống trong quyền quý giàu sang. Quả thật đó là một sự từ bỏ, sự hy sinh vĩ đại, có một không hai trong lịch sử loài người. Năm ấy, Thái tử tròn 19 tuổi (theo sử liệu Bắc truyền). Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng 8 tháng 2 Âm lịch.

Ý nghĩa kỷ niệm ngày Phật xuất gia

Ngày lễ kỷ niệm Phật xuất gia là ngày kỷ niệm sự hy sinh cao cả nhất, vĩ đại nhất, có một không hai trong lịch sử loài người.

Thật vậy, là một Thái tử đã yên bề gia thất với vợ đẹp con ngoan, sẽ kế tục vua cha để trị vì thiên hạ, một cuộc sống mà người đời có nằm mơ cũng không thấy được, quá đầy đủ, quá tuyệt vời, nhưng Thái Tử vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn, thắc mắc. Ngài thấy cảnh đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân thật, mà là mê muội. Vì tình thương bao la vô bờ bến đối với nhân loại đang đau khổ bất hạnh, Ngài quyết định ra đi để tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật, có ý nghĩa và cao đẹp hơn. Ngài đã ra đi với thân thế của một vị thái tử sắp nối ngôi vua, ở tuổi đời thơ mộng nhất, ngọt ngào nhất với vợ đẹp con xinh… Đó chính là hy sinh cao cả mà mọi người trên thế gian này không ai có thể làm được.

Dù cách nay đã gần 26 thế kỷ, mà ý nghĩa ngày Phật xuất gia vẫn còn in đậm trong tâm tư của tất cả những người con Phật. Một lần ra đi, Ngài đã thành công rực rỡ, vang động bốn phương, mang lại vô vàn lợi lạc cho muôn loài chúng sanh, âm hưởng vẫn còn vang đến ngày nay và mãi mãi vô tận về sau. Là người con Phật kể cả tại gia và xuất gia, lẽ nào chúng ta lại không học theo hạnh nguyện của Đấng Từ Phụ. Nếu cho rằng Ngài đã nhiều kiếp tu hành, không phải chỉ một kiếp như trong sử đã ghi chép, còn chúng ta chỉ mới có một kiếp tu hành thôi, thì chúng ta cũng phải cố gắng tu tập để có một vài nét gì đó giống như Phật chứ, như câu nói của người thế gian là “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Do đó kỷ niệm ngày Phật xuất gia nhằm nhắc nhở hàng Phật tử tại gia cũng như xuất gia noi theo gương sáng của Ngài để tu hành, để tinh tấn, để tăng trưởng trí tuệ và để giải thoát.

Tiếp nối hành trình tu hành

Về một ngày lễ kỷ niệm xuất gia của Đức Phật, không thể nghĩ bàn, bởi lẽ xuất gia là sự quyết định cho một lối rẽ của cuộc đời, tiến bước đi lên trên con đường giải thoát.

Xuất gia tiếng Phạn là Pravrajya là chỉ cho những người tu theo Phật, xa rời đời sống gia đình, chuyên tu hạnh thanh tịnh của Sa môn không màng danh lợi hay dục lạc, chỉ mong cầu giải thoát. Nếu xét về ý nghĩa thì Xuất gia còn có nghĩa là xuất thế tục gia, xuất phiến não gia và xuất tam giới gia. Nếu xét về hình thức thì có các dạng như sau:

  1. Thân xuất gia, tâm xuất gia (người Tu sĩ cần phải giữ hình thức này)
  2. Thân xuất gia, tâm không xuất gia
  3. Thân không xuất gia, tâm xuất gia
  4. Thân không xuất gia, tâm không xuất gia

Ý nghĩa của ngày lễ Phật xuất gia giúp cho người Tu sĩ nhìn lại gương hạnh của Đức Từ Phụ mà rèn luyện thân tâm mình sao cho “con nhà tông không giống lông cũng phải giống cánh”, đừng quá chạy theo phương tiện mà bỏ quên “đạo Phật gốc”. Nếu tu giống Phật thì chắc chắn sẽ thành Phật, cũng như những đứa trẻ muốn lớn lên trở thành Thầy giáo thì ngay từ lúc nhỏ chúng phải bắt chước những cử chỉ, nhửng hành động của người Thầy.

Trở lại tìm hiểu quá trình xuất gia của Đức Phật, chúng ta thấy rằng Thái tử đã từ bỏ vương triều hoàng cung của mình bên vợ đẹp con yêu, để sống đời khổ hạnh nơi rừng sâu, ngày người tu sĩ chúng ta chỉ là những người bình thường có gì để mà tiếc chứ. Những cái quý giá nhất mà Thái tử bỏ được, nếu người tu sĩ mà không học theo hạnh này thì làm sao xứng với danh hiệu là đệ tử Phật. Tất cả những hiện hữu trên cuộc đời dưới dạng giả hợp, như chiêm bao, như bọt nước mà thôi. Người thế gian vì mê lầm nên bị những thứ giả tạm đó làm cho điên đảo, mất bản tâm. Trái lại, người xuất gia nhận thức rằng mọi thứ vật chất, tinh thần đều nằm trong quy luật duyên sinh. Vì thế, bước đi đầu tiên của ngưới xuất là phải ra khỏi nhà thế tục, không chạy theo cuộc đời đầy hư huyễn nữa.

Những gì người thế tục nói, làm, ưa thích, người xuất gia không nói không làm, không ưa thích. Người thế tục ưa thích ngũ dục (tài sắc danh thực thụy) nên bị ngũ dục làm cho điên đảo, người xuâ

1