Xem thêm

Tì-kheo: Cuộc Sống và Đạo Lý của Những Tăng Sĩ

Phap Ngo Thich
Hình ảnh: Các tăng sĩ tại Thái Lan Hình ảnh: Tăng sĩ tại Luang Prabang, Lào đi khất thực Tì-kheo hay Tỳ-kheo là danh từ phiên âm từ chữ bhikkhu trong tiếng Pali và chữ...

Tì-kheo Hình ảnh: Các tăng sĩ tại Thái Lan

Tì-kheo Hình ảnh: Tăng sĩ tại Luang Prabang, Lào đi khất thực

Tì-kheo hay Tỳ-kheo là danh từ phiên âm từ chữ bhikkhu trong tiếng Pali và chữ bhikṣu trong tiếng Phạn. Được hiểu đơn giản là "người khất thực", Tì-kheo là thuật ngữ chỉ những người theo đạo Phật từ bỏ cuộc sống thế tục, thực hành hạnh khất thực và thụ lãnh giới luật. Trong Phật giáo, Tì-kheo cũng gần tương đương với thuật ngữ Sa-môn (zh. 沙門, sa. śramaṇa).

Truyền thống Tì-kheo ở Ấn Độ chỉ ám chỉ giai đoạn thứ tư trong cuộc đời những người theo đạo Bà-la-môn, khi họ rời bỏ cuộc sống gia đình, xin xuất gia và sống bằng hạnh khất thực để tìm cầu giải thoát. Tuy nhiên, Tì-kheo trong Phật giáo được hiểu là một tăng sĩ Phật giáo, người theo đạo Phật và sống bằng giới luật.

Theo quan điểm nguyên thủy, chỉ những người sống khác biệt mới có thể đạt được Niết-bàn. Hoạt động chính của họ là thiền định và giảng dạy giáo pháp. Họ không thụ hưởng cuộc sống gia đình và chọn sống lang thang không nhà. Giới luật của Tì-kheo bao gồm đời sống phạm hạnh, mẫu mực, thiểu dục tri túc, không vợ con và thực hành từ bi, được quy định trong Luật tạng.

Cuộc sống cơ hàn của Tì-kheo được thể hiện qua chiếc áo cà-sa mà các tăng sĩ mặc, bao gồm ba phần (Tam y, (sa. tricīvara) và được làm từ vải vụn kết lại. Họ chỉ sử dụng những vật dụng cần thiết như bát khất thực, dao cạo, kim chỉ, đồ lọc nước và gậy kinh hành. Tì-kheo không được nhận tiền bạc hay các vật dụng khác, thức ăn của họ là do sự cúng dường.

Các tăng sĩ Tì-kheo sống chung với nhau trong một đoàn thể gọi là Tăng đoàn, gồm ít nhất bốn tăng sĩ. Trong mùa mưa, các tăng sĩ thường an trú trong một tịnh xá (zh. 精舍, sa., pi. vihāra) để tính tuổi hạ, để tránh gây thiệt hại cho các sinh vật và cây cối. Mùa An cư kết thúc bằng buổi lễ Tự tứ (zh. 自恣, sa. pravāraṇā), trong đó các tăng sĩ sống chung trong một trú xứ, trao đổi kinh nghiệm tu tập, hoằng truyền chánh pháp, và kiểm điểm lại lỗi lầm hay thiếu sót với nhau.

Tì-kheo ít đi vân du, thường sống trong tu viện và thực hiện hành trình hành hương để tôn kính Phật. Ngày nay, các tăng sĩ Tì-kheo vẫn duy trì các tập tục như hồi đức Phật còn trên thế gian, nhưng cũng phải thích nghi với đời sống xã hội và điều kiện địa lý. Ví dụ, các tăng sĩ Trung Quốc thường tham gia vào các công việc đồng áng, điều mà Tì-kheo ngày xưa không được phép vì sợ gây hại cho sinh mệnh côn trùng. Một số trường phái Tì-kheo ở Tây Tạng và Nhật Bản cho phép tăng sĩ có gia đình và con cái. Quy định về khất thực cũng đã thay đổi qua thời gian.

Giới Luật

Theo Luật tạng, Tì-kheo nam có 227 giới và Tì-kheo nữ có 311 giới, theo truyền thống Nguyên thủy. Theo truyền thống Đại thừa, Tì-kheo nam có 250 giới và Tì-kheo nữ có 348 giới, được gọi là cụ túc giới.

Một người muốn xuất gia và trở thành Tì-kheo hoặc Tì-kheo ni phải thọ giới Sa-di (samanera) hoặc Sa-di ni (samaneri) trước, sau đó mới được thọ cụ túc giới (upasampāda) và phát nguyện tuân theo Giới bổn.

Xem thêm

  • Tăng già
  • Quy y
  • Hạ lạp
  • Cư sĩ

Tham khảo

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988.
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
  • Tìm hiểu về Giới Luật trong đạo Phật
  • Giới Trọng Yếu Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni

Bản mẫu: Tu sĩ Phật giáo

1