Xem thêm

NT.Như Đức: Giới luật - Nền tảng của sự giải thoát

Phap Ngo Thich
Ni Trưởng Thích Nữ Như Đức Ngày nay, việc tu trì Giới luật không chỉ là quan trọng mà còn là nền tảng giải thoát không thể thiếu của Phật giáo. Đi theo con đường...

Ni Trưởng Thích Nữ Như Đức Ni Trưởng Thích Nữ Như Đức

Ngày nay, việc tu trì Giới luật không chỉ là quan trọng mà còn là nền tảng giải thoát không thể thiếu của Phật giáo. Đi theo con đường của Pháp thân Đức Phật, chúng ta sẽ vượt qua hai trở ngại: trở ngại do phiền não và trở ngại do không thiện căn. Bằng việc giữ Giới, chúng ta có thể loại bỏ ba nghiệp không tốt và thu được ba thiện nghiệp giải thoát. Đối với những người xuất gia và những kẻ lữ khách mong muốn đạt được giải thoát thực chứng Niết Bàn, chúng ta cần phải tuân thủ và thực hiện tư lương. Tư lương của người xuất gia bao gồm Giới, Định và Tuệ, trong đó, Giới là bước đi đầu tiên. Đó là lý do tại sao luật quy định Tỳ Kheo "năm năm đầu phải chuyên học và thực hiện Giới luật, năm năm sau mới được nghiên cứu giáo lý và tham thiền". Nếu thiếu Giới luật, Định-Tuệ không thể phát triển.

Người ta thường nói: "Chiếc áo chưa thể làm nên thầy tu". Đúng như vậy, chúng ta hãy lắng nghe lời của Ngài Trí Húc: "Nếu thân xuất gia mà tâm không thanh bạch giữ đạo, phạm hạnh cao xa, bủa lòng từ bi khắp tất cả, thì đó là ăn trộm hình thức của Phật". Niềm hy vọng của Đức Phật đối với người xuất gia là hướng đến mục đích cao thượng đó là giải thoát. Mặc dù không phải ai cũng có thể đạt được mục tiêu trong cuộc đời này, nhưng cuộc sống thanh bạch và việc tu trì Giới là nền tảng để nâng cao phẩm giá của người xuất gia. Ngay khi bước vào chùa, người xuất gia phải học và thực hành "Tỳ Ni Nhật Dụng thiết yếu", những điều quan trọng áp dụng hàng ngày để duy trì Giới luật. Việc trì kệ chú nhằm mang đến sự diệu hóa đời sống và mở rộng tâm nguyện hàng ngày của chúng ta.

Đối với bản thân người xuất gia, việc thể hiện một cuộc sống tâm linh tự tại mới là hình bóng của một người xuất gia thực sự, mô phỏng một nền đạo đức từ bi và giải thoát.

Tất cả hoạt động Phật sự đều đòi hỏi Tăng già, hay chính xác hơn là bổn phận của Phật giáo. Vì "Phật giáo tồn tại nhờ Tăng già", nhưng để có thể truyền bá Chánh pháp, Tăng già phải được đào tạo về cả Phật học và thế học.

Đối với Phật học, Tăng đoàn cần tạo điều kiện tiếp cận tài liệu và tri thức về sự phát triển và xây dựng xã hội. Nói chung, hàng Tăng sĩ phải được đào tạo cả về Phật học và thế học, vì muốn đem đạo vào cuộc sống, chúng ta cần hiểu rõ cuộc sống, vì vậy chúng ta cần nghiên cứu thêm bên ngoài. Về Phật học, Tăng già đóng vai trò duy trì kỷ cương xuất thế của đạo, vì vậy, điều quan trọng nhất là phải tuân thủ đầy đủ Giới, Định và Tuệ.

Đức Phật đã lập ra Giới luật để dạy người tu tập đạt tới giải thoát không còn sanh tử luân hồi, và đó là Giới luật trong hàng xuất gia. Người xuất gia đã nhận thức rõ rằng cuộc sống này chỉ là tạm thời. Vì vậy, chúng ta mong muốn thoát khỏi mọi khổ đau. Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta phải sống theo nguyên tắc của người hành giả. Thật vậy, Giới luật là sinh mạng, là sự sống của tất cả con người, đặc biệt là những người xuất gia - "thừa Như Lai sứ, tác Như Lai sự". Sống đúng theo tinh thần của Giới luật có nghĩa là tìm kiếm nơi an trú cho các công việc thiện, và đó cũng là cách sống mang tính "ưng vô sở trụ".

Phật đã lập ra Giới luật cho hàng xuất gia bởi vì chúng Tỳ Kheo là mẫu người tu hành lý tưởng, có thể coi là đạo đức hoàn thiện trong thế gian. Hay nói đúng hơn, Giáo lý vô tham sẽ dập tắt hiện tượng tham nhũng trong xã hội, dập tắt chiến tranh và đưa con người đến sự tự chủ, tự tin và sáng tạo, để nhận những giá trị tinh hoa và nâng cao cuộc sống, đồng thời lan tỏa giáo lý giác ngộ trong xã hội, mang lại văn minh, văn hóa và hạnh phúc. Đó là mẫu người đại diện cho giáo lý của Phật giáo biết áp dụng tinh thần Giới luật Đại thừa, chớ không xa lánh thế tục. Vì vậy, người tu hành phải tuân thủ Giới trước hết. Vì Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề.

Tóm lại, tinh thần Giới luật là nền tảng của sự giải thoát, là bước tiến để xã hội phát triển ở mọi mặt. Giới luật không chỉ là nền tảng đạo đức không giới hạn, mà còn mang ý nghĩa thực tế và sống động của nguyên tắc đạo đức. Có thể nói, Giới luật là viên ngọc quý, mà chúng ta càng mài càng đẹp. Từ đó, giá trị thực sự của nó được thể hiện. Vì vậy, hãy trì giữ và hành trì Giới luật như việc nắm giữ hạnh phúc cao quý nhất của chúng ta.

Mục đích của Giới luật trong Phật giáo là hòa nhập giữa Từ bi và Trí tuệ. Giới cũng giống như đóa hoa sen sống giữa bùn nhơ mà vẫn tinh khiết, tỏa ra mùi hương thơm ngát. Như trong Kinh Pháp Cú có dạy:

"Hương các loài hoa thơm Không bay ngược chiều gió Nhưng hương người đức hạnh Ngược gió khắp tung bay".

Hơn bao giờ hết, Giới-Định-Tuệ là hệ thống giáo lý cứu khổ của Đức Phật, vẫn luôn hữu dụng và mang giá trị giáo dục đạo đức và tâm lý trong thực tế, tác động lẫn nhau cho con người. Giới luật Đức Phật không phải là lời nói hão huyền mà mang ý nghĩa để củng cố và phát triển đạo đức, duy trì lòng từ trong Giáo đoàn và hạnh lành cho Phật tử tại gia và cộng đồng xã hội.

Đức Phật luôn đề cao sự an lạc, hạnh phúc trong tinh thần, chỉ khi có Giới đức, Tâm đức và Tuệ đức đủ đầy, cuộc sống mới đạt tới một cuộc sống giới hạnh tuyệt vời mà mọi người, không phân biệt giới tính, tuổi tác hoặc tình trạng xuất gia tại gia, đều tuân thủ.

Hy vọng của Đức Phật khi truyền bá Chánh pháp là mang lại sự trật tự, đạo đức và công bằng trong xã hội. Mà không có đạo đức, khổ đau vẫn sẽ tồn tại mãi. Vì vậy, Giới đã xây dựng một cuộc sống đạo đức và giải thoát cho hàng xuất gia và cả tại gia.

Qua đây, chúng ta đã thấy rõ sự quan trọng của Giới, Định và Tuệ trong cuộc sống của người con Phật và không thể thiếu bất kỳ một trong ba môn học này. Giữ Giới, Định và Tuệ, chúng ta sẽ hiểu sự thật, duy trì Giới luật một cách nghiêm trang và có Trí tuệ sáng suốt. Chỉ khi đi trên con đường tu học Phật pháp theo cách này, chúng ta mới tiến gần hơn tới quả vị Vô thượng Bồ đề.

Ni Trưởng Thích Nữ Như Đức

1