Xem thêm

Lời đề tặng của một quyển sách: Mang đến tình cảm sâu nặng

Phap Ngo Thich
Tập bút ký "Thương nhớ mười hai" của Vũ Bằng đã trở thành một tác phẩm văn học bất hủ, được nhiều thế hệ bạn đọc say mê suốt 45 năm kể từ khi xuất...

Tập bút ký "Thương nhớ mười hai" của Vũ Bằng đã trở thành một tác phẩm văn học bất hủ, được nhiều thế hệ bạn đọc say mê suốt 45 năm kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1972. Trong ấn bản đầu tiên đó, tác giả đã dành cho người vợ một lời đề tặng đầy cảm xúc:

"Bắt đầu viết cuốn sách này thì đã nhớ. Viết được câu chót bài "Tháng Chín" thì là thương. Thương không biết bao nhiêu, nhớ không biết ngần nào người bạn chiếu chăn: Nguyễn Thị Quỳ… Thành mến tặng Quỳ cuốn sách này để thay mấy lời ai điếu."

Lời đề tặng này ngắn gọn, súc tích nhưng chứa đựng tình cảm sâu nặng của nhà văn Vũ Bằng đối với đất Bắc. Nó có ý nghĩa quan trọng trong quá trình người đọc khám phá tác phẩm văn học này.

Tuy nhiên, phiên bản sách "Thương nhớ mười hai" do Hội Nghiên cứu Giảng dạy Văn học Thành phố Hồ Chí Minh tái bản và một số nhà xuất bản đã bỏ quên in lời đề tặng của tác giả. Điều này là một thiếu sót cần được suy ngẫm.

Dòng lời đề tặng này thực sự mang lại một nỗi niềm trĩu nặng và nức nở của sự nhớ thương vô cùng. Đó là sự nhớ tha thiết đau đớn đến chết người, mặc dù đã trải qua suốt mười hai tháng. Mỗi tháng, mỗi thời khắc, những kỷ niệm bàng bạc hiện lên trong tâm tưởng hoài cảm của người viết đối với nơi chôn nhau ở miền Bắc, Hà Nội, trong suốt hai mươi năm chia đôi đất nước. Tháng giêng, mơ về trăng non rét ngọt. Tháng hai, tương tư hoa đào. Tháng ba, rét nàng Bân. Tháng tư, mơ tắm suối Mường. Tháng năm, nhớ Nhót, Mận, Rượu nếp và Lá móng. Tháng sáu, thèm nhãn Hưng Yên...

Đó là mười hai tháng vẫn miên man trong nỗi nhớ. Nhớ quê hương, nỗi lòng với đất nước và tình yêu thương Hà Nội đến tê buốt, đau đớn mà không biết giãi bày cùng ai. Người vợ mà tác giả thương quý nhất, cũng là nguồn cảm hứng văn chương đầy chua xót, đã khởi đầu và kết thúc cho tác phẩm bút ký tuyệt vời này, làm cho hàng trang viết đầy cảm xúc.

Nhà văn Tô Hoài đánh giá rất cao Vũ Bằng, không phải so sánh, nhưng ông vẫn đưa Nam Cao làm đối trọng để đánh giá: "Sự ảnh hưởng qua lại rồi nảy sinh những sáng tạo khác nhau thường thấy những tài năng... Nhưng ở Vũ Bằng, cái ngẩn ngơ bằng những nét bút khinh bạc. Ở Nam Cao là cái gì bi phẫn, cái gì giằng xé. Điểm cuối cùng đi tới mỗi người mỗi khác..."

Với "Thương nhớ mười hai", Tô Hoài ngưỡng mộ: "Thương nhớ mười hai là một nét anh hoa của tấm lòng với cuộc đời". Nhà văn Triệu Xuân kể lại câu chuyện: "Có người bạn hỏi tôi: Sang thế kỷ 21 rồi, nếu chỉ mang 10 cuốn sách văn học vào thế kỷ mới, ông mang những cuốn nào? Tôi trả lời ngay: Một trong những cuốn tôi mang theo là "Thương nhớ mười hai" của Vũ Bằng."

Trong quá trình viết "Thương nhớ mười hai" và nhiều tác phẩm khác, Vũ Bằng đã trải qua một thời gian khó khăn, khi ông hoạt động trong quân báo ngầm ở Sài Gòn, trong khi vợ là bà Nguyễn Thị Quỳ và con trai là Vũ Hoàng Tuấn ở lại Hà Nội. Trái tim ông phải chịu đựng nhiều âu lo từ sự xa lánh của bà con hàng xóm, sự cô lập và những lời mỉa mai, chỉ vì ông là người "dinh tê về thành", nhà văn "quay lưng lại với kháng chiến" và "di cư vào Nam theo giặc".

Vợ ông đã mất trong tủi nhục tức tưởi vì không hiểu rõ về thân thế của chồng. Lúc đó, đất nước vẫn phân chia hai miền nhưng ông cũng đã biết tin. Rốt cuộc, ông không thể thắp nén hương cuối cùng cho vợ. Với Vũ Bằng cũng vậy, sau một thời gian dài để xác minh nhưng đã quá muộn, vào tháng 3 năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng mới có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo, tiếc rằng ông đã mất 14 năm trước đó (1984). "Thương nhớ mười hai" là một nén hương lòng, một lời khóc vợ cuối cùng như dòng cuối cùng của lời đề tặng: "Thành mến tặng Quỳ cuốn sách này để thay mấy lời ai điếu..."

Rõ ràng, hình bóng của vợ là nguồn cảm hứng sâu xa ám ảnh đầy ức chế, tạo nên "Thương nhớ mười hai" là một tác phẩm văn học bất hủ, một tiếng kêu thống thiết bi thương vọng lên giữa cuộc sống. Vì vậy, không hiểu sao Hội Nghiên cứu Giảng dạy Văn học Thành phố Hồ Chí Minh lại bỏ quên lời đề tặng đầy tâm huyết của tác giả đối với tinh thần của mình.

Lời đề tặng như một cánh cửa mở ra, lời mời gọi giúp người đọc tiếp cận sâu hơn tuyệt phẩm văn học này. Bỏ đi lời đề tặng của tác giả cũng như cắt bỏ tâm thế của người đọc đối với văn chương.

Ô hay, khi dạy môn văn trong trường phổ thông, giáo viên phải tạo một tâm thế cho học sinh trước khi giảng giải, phân tích một tác phẩm văn học cụ thể. Điều này giúp tạo sự hứng khởi và khai mở cảm nhận cho học sinh trước tiết học. Tương tự, lời đề tặng của tác giả ở đầu sách "Thương nhớ mười hai" là một khởi đầu cho tâm thế của người đọc trước khi bước vào thế giới sáng tạo văn học của tác phẩm này.

Mặc dù chỉ là một lời đề tặng ngắn ngủi, nhưng ý nghĩa của nó cực kỳ sâu xa.

1