Trên đỉnh núi Tà Cú (thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận) tồn tại hai ngôi chùa trăm năm tuổi và tượng Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn dài 49m. Đây từng được công nhận là tượng Phật nhập niết bàn dài nhất châu Á. Quanh việc xây dựng chùa và tượng trên ngọn núi này là những câu chuyện ly kỳ và đầy sắc màu.
Chùa cổ trên núi thiêng
Núi Tà Cú nằm cách Phan Thiết 28km về phía Nam, với độ cao chỉ 649m. Tuy núi cao nhưng lại tràn đầy sự tĩnh lặng và u uất bởi rừng già và sương mù bao phủ. Bình Thuận nổi tiếng với lượng nắng nhiều, nhưng núi Tà Cú lại luôn mát mẻ, với sương mù bao phủ sớm và chiều.
Cách đỉnh núi không xa có hai ngôi chùa, chùa trên là Linh Sơn Trường Thọ, còn được gọi là chùa Trên. Nằm gần đó là Tổ Đình Long Đoàn, thông thường được gọi là chùa Dưới. Chùa Trên ra đời trước, có thông tin cho rằng nó được xây dựng vào năm 1879, liên quan đến vị tổ sư khai sơn là nhà sư Hữu Đức (1812 - 1887).
Một số tài liệu cho biết vị tổ sư tên là Trần Hữu Đức, pháp danh Thông Ân, pháp hiệu Hữu Đức, là người Phú Yên. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc theo truyền thống Nho học, từ nhỏ ông thường đi chùa lễ Phật. 17 tuổi, ông rời quê để học đạo ở Phan Thiết.
Ông đã dành thời gian tu tập và góp sức chăm sóc Phật sự ở nhiều chùa tại Bình Thuận. Vào những năm 1839, ông tu hành ở làng Bàu Trâm gần mũi Kê Gà, cùng lúc trị bệnh cho người dân trong làng. Năm 1872 (có tài liệu cho rằng là năm 1870), Hữu Đức leo lên đỉnh núi Tà Cú để tu hành trong một hang đá, dành phần đời còn lại của mình tại đây.
Tượng được công nhận là tượng Phật nhập niết bàn trên núi dài nhất châu Á.
Truyền thống cho biết, núi Tà Cú từng là vùng rừng thiêng hiểm trở, trú ngụ nhiều dã thú và nguy cơ. Tuy nhiên, Hữu Đức tu hành ở đây mà không gặp phải bất kỳ sự tấn công nào từ thú dữ. Thậm chí, trong quá trình tu hành trong hang đá, lời pháp của Hữu Đức đã thuyết phục một con bạch hổ, biến nó từ hung dữ thành hiền lành.
Sau khi được thuần hóa, con bạch hổ trắng không rời khỏi khu vực tu hành, ngày ngày nằm dưới chân của Hữu Đức. Sau khi ông viên tịch, con bạch hổ buồn đến mức không ăn không uống, cuối cùng nằm bên cạnh tháp của ngài để qua đời. Đệ tử của Hữu Đức đã chôn cất con bạch hổ bên cạnh tháp của ngài. Hang đá và tháp ngài từ xưa đến nay vẫn còn tồn tại, được gọi là hang Tổ.
Hữu Đức không chỉ là một nhà sư tu đạo uyên bác mà còn là một bậc thầy thuốc tài ba. Vào năm Tự Đức 33 (1880), khi hoàng thái hậu Từ Dụ mắc bệnh nặng, các thái y trong triều đều không thể giúp. Người biết đến sự giỏi giang của Hữu Đức đã xin vua cho phép ngài trị bệnh cho hoàng thái hậu. Mặc dù ý nguyện của Hữu Đức là tu hành trên núi và không xuống đất, ngài đã chuẩn bị các phương thuốc cần thiết và gởi lên triều để chữa bệnh cho hoàng thái hậu Từ Dụ.
Nhờ vào phương pháp của Hữu Đức, hoàng thái hậu Từ Dụ đã khỏi bệnh. Để tạ ơn, vua Tự Đức đã trùng tu chùa và tôn xưng Hữu Đức là Đại Lão Hòa Thượng. Sau đó, ngày càng có nhiều người dân đến nhờ Hữu Đức trị bệnh. Và sau này, ông được coi là vị tổ đầu tiên trên núi Tà Cú.
Năm 1887, Hữu Đức qua đời ở tuổi 76 sau khi truyền lại kiến thức cho đệ tử. Năm 1890, sư Tâm Hiền xây dựng ngôi chùa mới ở phía dưới, sau này được gọi là chùa Dưới hay chùa Long Đoàn.
Kiệt tác tượng Phật nằm
Ngoài hai ngôi chùa cổ, một điểm đến đặc biệt thu hút du khách trên núi Tà Cú là tượng Đức Phật Thích Ca nhập niết bàn. Tượng nằm phía sau hai ngôi chùa và cách hang Tổ khoảng hơn 100m. Ý tưởng xây dựng tượng xuất phát từ sư trụ trì chùa Linh Sơn Trường Thọ - Hòa thượng Thích Vĩnh Thọ (1905 - 1982).
Công trình được thực hiện dưới sự tham gia và chủ trì của nhà điêu khắc nổi tiếng Trương Đình Ý. Ông là người đã vẽ ra những nét đầu tiên của tượng và từ bỏ mọi việc để tập trung xây dựng tượng. Vào năm 1962, Trương Đình Ý từ bỏ công việc giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định (Sài Gòn) và xa lánh gia đình để lên núi Tà Cú. Trong suốt hơn 5 năm xây dựng, ông đã trụ tóc và ăn chay niệm Phật.
Quá trình xây dựng tượng có những câu chuyện kỳ lạ được truyền tụng cho đến ngày nay. Hàng ngàn Phật tử và người dân đã chung tay vận chuyển từng viên đá, từng bao xi măng từ chân núi vượt qua đường đi dài gần 3 cây số, với dốc đá cao và cây rừng bao trùm. Mặc dù công việc khó khăn và nguy hiểm, nhưng không có tai nạn nào đáng kể xảy ra trong quá trình thi công.
Đặc biệt, cát dùng để xây tượng đã được tạo ra trực tiếp trên núi, không cần phải vận chuyển từ vùng đồng bằng lên núi. Truyền thuyết cho biết, Hòa thượng Thích Vĩnh Thọ đã tạo ra cát ngay trên đỉnh núi một cách thần kỳ. Ông đã giữ lại và che kín những mạch nước trên núi, chỉ để lại vài mạch nước chảy và thực hiện lễ cầu nguyện. Kỳ tích xảy ra khi những mạch nước đó biến thành cát vàng tinh khiết.
Sau 5 năm xây dựng, tượng Phật Thích Ca nhập niết bàn hoàn thành vào năm 1967. Tượng được thiết kế trong tư thế nằm nghiêng, với đầu gối chống cẳng tay, lưng tựa vào vách núi và một diện tích cơ 832m. Tượng cao 11m, dài 49m, tượng trưng cho 49 năm từ khi Đức Phật thành đạo đến khi nhập niết bàn. Tượng sau đó được công nhận là tượng Phật nằm dài nhất tại Việt Nam và năm 2013, Tổ chức Kỷ lục châu Á công nhận là tượng Phật nhập niết bàn trên núi dài nhất châu Á.
Ban đầu, tượng có một cánh cửa phía sau cổ, đủ cho một người đi vào bên trong. Tuy nhiên, cánh cửa này đã gây ra nhiều thông tin sai lệch và những lời đồn đại kỳ quái và ma mị. Vì chùa Linh Sơn Trường Thọ là ngôi chùa nghèo, việc xây dựng tượng Phật khổng lồ trên núi đã tốn rất nhiều chi phí.
Sau đó, nhà điêu khắc Trương Đình Ý đã cho biết, lý do để lại cánh cửa là vì công trình vẫn chưa hoàn thành. Vào khoảng năm 1998, cánh cửa đã được lấp lại. Vì vậy, sau đó, nhiều người hiếu kỳ không còn tìm thấy dấu vết nào về cánh cửa phía sau tượng Phật.
Sau hơn nửa thế kỷ, tượng Phật nằm vẫn tỏa sáng trang nghiêm giữa vẻ đẹp yên bình của núi rừng. Đây là cảnh "Song lâm thị tịch", là ước ao của nhiều người muốn đặt chân tới một lần. Trên đỉnh núi, vào ban ngày khi chuông chùa vang lên, màn sương mờ được quan sát nhìn thấy mảng cánh đồng và những mái nhà nhỏ bé dưới chân núi. Và đêm đến, cảnh sắc của vùng đất trồng thanh long rực rỡ khi nông dân thắp đèn cho cây nở bông.
Năm 1993, quần thể danh lam thắng cảnh núi Tà Cú được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Năm 1996, khu bảo tồn thiên nhiên Tà Cú được thành lập. Và năm 2003, khu du lịch Núi Tà Cú chính thức đi vào hoạt động với tuyến cáp treo dài 1.600m, cao 505m, với khả năng phục vụ 1.000 khách/giờ.
Ngày nay, du khách đến núi Tà Cú không chỉ vì mục đích tôn ngưỡng mà còn để khám phá vẻ đẹp đặc sắc của nơi này. Một thời gian trước đây, những người lên chùa trên đỉnh núi phải đi bộ từ chân núi qua rừng rậm, vượt qua quãng đường dài gần 3 cây số trên con đường đầy đá. Người trẻ đi nhanh có thể mất vài giờ, trong khi người đi chậm có thể mất một ngày. Nhưng sau khi có cáp treo, chỉ mất chưa đầy 20 phút để đến đỉnh núi và viếng thăm chùa cùng tượng Phật nằm.