Nghe tụng Kinh Vu Lan Báo Hiếu để bày tỏ lòng tri ân, báo hiếu ân đức của đấng sinh thành nên chúng ta nhân dịp lễ Vu Lan.
Qua hàng nghìn năm, Vu Lan báo hiếu chính là một trong những ngày lễ có sức sống văn hóa mạnh liệt nhất của đời sống tinh thần mỗi người dân Việt Nam. Trong truyền thống đạo lý người Việt, báo đáp cha mẹ, ông bà tổ tiên chính là thể hiện đạo hiếu có ý nghĩa quan trọng nhất trong đời sống chúng ta. Ngày lễ Vu Lan báo hiếu đã trở thành ngày lễ mang đậm nét nhân văn, thể hiện rõ đạo lý đền ơn đáp nghĩa của dân tộc.
Nguồn gốc và ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan báo hiếu
Nguồn gốc lễ Vu Lan
Lễ Vu Lan xuất phát từ sự tích Bồ Tát Mục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ mình khỏi kiếp ngạ quỷ. Từ đó, lễ Vu Lan đã trở thành ngày tưởng nhớ công ơn cha mẹ và tổ tiên. Có ý nghĩa nhắc nhở mỗi người biết trân trọng những gì mình đang có. Nhắc nhở bổn phận làm con phải luôn nhớ công ơn sinh dưỡng của cha mẹ.
Kể từ khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam, ngày lễ Vu Lan đã trở thành truyền thống của tinh thần báo hiếu, báo ân phù hợp với tinh thần tín ngưỡng đền đáp công ơn tổ tiên có ý nghĩa thiêng liêng của người dân Việt.
Ảnh: kinh vu lan bao hieu 3
Ý nghĩa ngày lễ Vu Lan báo hiếu
Lễ Vu Lan báo hiếu không đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng mà đã trở thành lễ hội văn hóa tình người. Pháp hội Vu Lan còn có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc hướng mỗi người trở về với cội nguồn dân tộc về đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Ngày lễ Vu Lan có ý nghĩa báo hiếu công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, không chỉ là ngày lễ của Phật tử mà đã trở thành một lễ hội văn hóa tinh thần chung của cả xã hội mang đến thông điệp về lòng biết ơn như một biểu hiện và cư xử văn hóa đáng được con người lưu tâm.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tinh thần đạo hiếu cần được đề cao và biểu dương mạnh mẽ hơn để truyền thống đó luôn được bồi đắp, ngày càng trở thành sức mạnh văn hóa của dân tộc hôm nay và mãi mãi về sau.
Ý nghĩa đúng đắn và đầy đủ của Kinh Vu Lan Báo Hiếu
Lòng hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ không chỉ thể hiện trong ngày lễ Vu Lan. Công ơn cha mẹ như trời bể, làm con suốt đời báo ơn cha mẹ vẫn chưa đủ. Tuy nhiên, khi báo hiệu thì con cái phải thể hiện quan niệm sáng suốt và đúng đắn mới thật sự có ý nghĩa:
Ảnh: ý nghĩa của kinh vu lan báo hiếu cha mẹ
Báo hiếu về vật chất
Con cái phải hầu hạ thờ cúng, thay làm các việc nặng nhọc, săn sóc miếng ăn giấc ngủ không để cho cha mẹ mình thiếu thốn. Tuy nhiên, con cái cũng phải sáng suốt khi báo hiếu cha mẹ, không nên quá chiều theo những mong muốn của cha mẹ mà tạo ra những nghiệp dữ gây tội để làm cho cha mẹ mình được sung sướng về vật chất. Làm như vậy không phải là báo hiếu mà chính là bất hiếu gây ra tội lỗi thêm cho cha mẹ và chính bản thân mình.
Bên cạnh đó, báo hiếu về vật chất dù cho đầy đủ đến mấy đi nữa cũng chẳng qua là làm cho cha mẹ mình được vui vẻ thỏa mãn trong kiếp hiện tại. Cái dư giả vật chất là vui giả tạm vui trong sanh tử luân hồi. Chính vì thế, nếu chỉ báo hiếu về vật chất thôi là chưa đủ.
Báo hiếu về tinh thần
Con cái phải biết báo hiếu tinh thần cho cha mẹ. Báo hiếu về tinh thần chính là làm sao cho tinh thần của cha mẹ được nhẹ nhàng đi dần đến chỗ được giải thoát. Con cái phải khuyên cha mẹ tin vào nhân quả tội phước và quy y Tam Bảo, bố thí phóng sinh, niệm Phật, làm việc lành nhằm tu nhân để được giải thoát. Có như vậy thì không những ở hiện tại cha mẹ được yên vui mà đời sau cũng được nhiều phước báo.
Sơ lược nội dung Kinh Vu Lan Báo Hiếu
Nội dung Kinh Vu Lan Báo Hiếu gồm có 3 phần:
Phần 1: Nguyên nhân Đức Phật thuyết kinh
Ngài Mục Kiền Liên là đại đệ tử của Thế Tôn, với lòng hiếu thảo mong muốn giúp đỡ mẹ mình đã lâu, nay nhân dịp Ngài chứng đắc sáu phép thần thông, liền muốn dùng những thần thông ấy tìm xem người mẹ quá cố của mình hiện thời đang ở đâu, để cứu giúp và báo đáp ân đức sinh thành.
Ngài đã dùng Thiên nhãn thông để nhìn suốt khắp sáu cõi, thì biết được rằng mẹ mình đang ở cõi ngạ quỹ, bị bỏ đói chỉ còn trơ da xương và khốn khổ vô cùng. Thấy vậy, Ngài liền mang cơm đến cho mẹ ăn.
Được cơm, mẹ Ngài vội lấy tay trái che dấu không cho ai nhìn thấy, tay phải bốc cơm mà ăn. Nhưng thương thay, nắm cơm vừa tới miệng liền biến thành cục lửa than cháy bỏng, nên không thể nào ăn được, cứ như thế tái diễn mãi, tình cảnh vô cùng thương tâm.
Ngài Mục Kiền Liên không thể nào cứu giúp mẹ, liền trở về bạch với Đức Phật sự việc như thế để nhờ Thế Tôn giúp đỡ.
Phần 2: Thế Tôn chỉ dạy Ngài Mục Kiền Liên con đường hay phương pháp để cứu mẹ mình thoát khỏi thảm cảnh
Theo Kinh Vu Lan Báo Hiếu, Thế Tôn đã giải thích cho Ngài Mục Kiền Liên rõ, vì căn tánh tham sân si của mẹ Ngài quá sâu dày, bất thiện nghiệp quá nặng nề, nên phải thọ quả báo tương ứng. Thế nên không phải chỉ riêng một mình Ngài Mục Kiền Liên không cứu được mẹ mình, mà thậm chí các vị đạo sỹ, các vị thiên thần, cho đến Tứ thiên vương cũng không thể nào làm gì được. Và biện pháp duy nhất là phải nhờ vào uy lực của chư Tăng mới có thể cứu được mẹ Mục Kiều Liên.
Nhân ngày Tự tứ vào ngày rằm tháng 7, các hiền thánh tăng thuộc hàng Thanh văn, Duyên Giác đủ sáu phép thần thông giáo hóa tự tại, hay là các Bồ tát Đại sĩ thuộc hàng Thập địa đang hiện thế phương tiện tỷ kheo, tất cả đều quy tụ trong Tăng chúng đồng đẳng nhất tâm tập hợp về cùng một trú xứ để thọ lễ Tự tứ.
Vì tất cả các vị tỷ-kheo tụ hợp về thọ lễ Tự tứ đều là những người có đầy đủ giới hạnh trang nghiêm, có chánh định thù thắng, có chánh trí tuệ thù thắng nên tạo thành giới pháp đạo đức sâu rộng mênh mông, có oai lực cảm ứng, có thần lực hộ trì chiêu cảm, có hiệu lực tác động thật là vô cùng linh ứng, quảng đại, vô biên.
Vào ngày Tự tứ vào rằm tháng bảy này, chúng ta, mỗi người hãy vì cha mẹ hiện tại và trong bảy đời quá khứ, cùng những người đang ở trong vòng khổ nạn mà sửa soạn các loại đồ ăn thức uống, quả củ, trái cây đủ loại hương vị, ngon bổ, thượng vị, chay tịnh: các loại nhang đèn, hương hoa thanh tịnh mà dâng cúng dường các vị Hiền thánh tăng.
Khi thực hiện các điều trên với lòng thành kính thì cha mẹ và bà con trong đời này, nếu đã quá vãng thì được thoát khổ trong ba đường: địa ngục, ngạ quỹ, súc sinh không còn cảnh đói khổ. Nếu cha mẹ đang còn sống thì được hưởng phước lạc sống lâu, đến như cha mẹ trong bảy đời sẽ được tái sinh nơi Thiên giới Tha hóa tự tại.
Sau khi Ngài Mục Kiền Liên thực hiện lời chỉ dạy của Thế Tôn tức thời, tiếng rên la bi thảm của mẹ Ngài không còn nữa và trong ngày ấy bà được thoát khỏi cảnh khổ trong kiếp ngạ quỷ.
Phần 3: Thế Tôn chỉ dạy bổn phận và phương pháp thể hiện hiếu thảo đối với cha mẹ của tất cả mọi người
Trong Kinh Vu Lan Báo Hiếu, Đức Phật dạy bất cứ ai đều có thể thực hiện được lòng hiếu thảo của mình đối với cha mẹ hiện tiền hay quá cố bằng cách vào ngày rằm tháng bảy. Cầu nguyện cho cha mẹ mình được sống lâu trăm tuổi. Cha mẹ trong bảy kiếp mình được thoát khỏi cảnh khổ được sanh thiên giới.
Nghi thức tụng kinh vu lan báo hiếu
(Được biên dịch bởi thầy Thích Minh Thời)
Ảnh: Cách tụng kinh vu lan báo hiếu cho cha mẹ
Trước khi tụng kinh, hãy thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngay trán niệm lớn bài cúng hương
Cúng Hương
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam bảo Thề trọn đời giữ Đạo Theo tự tánh làm lành Cùng pháp giới chúng sanh Cầu Phật từ gia hộ Tâm Bồ Đề kiên cố Xa bể khổ nguồn mê Chóng quay về bờ giác.
Kỳ Nguyện
Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ kính thành, cúng dường trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam bảo, Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, cùng các vị Bồ tát, tịnh Đức chúng Tăng, từ bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp độ. Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo (3 lần)
(Ðứng dậy cắm hương và đọc bài kệ Tán Thán Phật)
Tán Thán Phật
Đấng Pháp Vương Vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loại Quy y trọn một niệm Dứt sạch nghiệp ba kỳ Xưng dương cùng tán thán Ức kiếp không cùng tận.
Quán Tưởng
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng. Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn, Lưới đế châu ví đạo tràng. Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời. Trước bảo tọa thân con ảnh hiện Cúi đầu xin thệ nguyện Quy y. (Xá 3 xá rồi xướng lạy)
Ðảnh Lễ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, Thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy) Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy) Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy) (Ðứng hoặc ngồi, vô chuông mõ và đồng tụng):
Tán Lư Hương
Kim lư vừa bén chiên đàn, Khắp xông Pháp giới đạo tràng mười phương. Hiện thành mây báu kiết tường, Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền. Pháp thân toàn thể hiện tiền, Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho. Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3 lần)
Chú Ðại Bi
Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề Tát đỏa. Tát bà tát đá na ma. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà h