Xem thêm

An Cư, Sám Hối Cho Tiêu Nghiệp

Phap Ngo Thich
Ảnh: Bảo Toàn Chào mừng bạn đến với bài viết này! Trong đạo Phật, chúng ta thường nghe về quy định an cư trước khi tiếp tục tu hành và được bổ nhiệm làm trụ...

ANH BT (15).JPG Ảnh: Bảo Toàn

Chào mừng bạn đến với bài viết này! Trong đạo Phật, chúng ta thường nghe về quy định an cư trước khi tiếp tục tu hành và được bổ nhiệm làm trụ trì. Tuy nhiên, không phải Tỳ-kheo nào cũng đạt được đầy đủ oai nghi và tế hạnh.

Đức Phật và Thánh chúng có ba ngàn oai nghi và tám vạn tế hạnh, khiến họ trở thành những Thánh. Đối với chúng ta, những con người phàm tục, qua từng lần tu hành, chúng ta cũng có thể trở thành Hiền Thánh.

Để trở thành Hiền Tăng, chúng ta phải phát triển từ bốn oai nghi căn bản. Các oai nghi này liên quan đến hành động của thân, khẩu và ý của chúng ta. Chính từ những hành động đó mà chúng ta có thể đạt được tế hạnh và trở thành Tăng tướng.

Về thân nghiệp, theo Pháp phật, chúng ta có bốn tội căn bản là giết, đạo, dâm và vọng. Điều này có nghĩa là nếu chúng ta không tuân thủ đầy đủ bốn điều này, chúng ta không thể đạt tư cách của người phàm tục, và làm sao là đệ tử xuất gia để mang phước đến cho chúng sinh. Vì vậy, chúng ta cần tu hành để làm tròn bốn căn bản của thân và chỉ có khi thân, khẩu và ý của chúng ta thanh tịnh thì tế hạnh mới hiện ra.

Thân nghiệp thanh tịnh đồng nghĩa với việc chúng ta không bị ốm đau hay bệnh tật. Điều này cho thấy rằng một Tỳ-kheo cần phải có tướng Tỳ-kheo để trở thành Hiền Thánh.

Ví dụ, Đức Phật từng nhịn đói đến mức da bụng dính với xương sống mà vẫn sống bình thường. Điều này là do túc nghiệp của Ngài đã thanh tịnh ngay từ khi Ngài còn ở trong tử cung. Vì vậy, suốt cuộc đời của Ngài, thân nghiệp của Ngài luôn thanh tịnh.

Tuy nhiên, chúng ta thường ốm đau và bệnh tật. Đó là bởi vì túc nghiệp của chúng ta trong kiếp trước chưa thanh tịnh. Trí Giả đại sư từng nhắc chúng ta về điều này.

Ví dụ cá nhân của tôi là khi tôi còn nhỏ, thường xuyên bị bệnh, thậm chí là những căn bệnh nguy hiểm. Tôi đã trải qua bệnh suyễn từ khi 6 tuổi, bệnh thấp khớp từ khi 9 tuổi và bệnh đau tim từ khi 12 tuổi.

Vì vậy, khi tôi xuất gia để tu học Phật pháp, tôi đã lấy lòng quyết tâm của Trí Giả làm đối tượng tu tập và tuân theo lời dạy của Ngài để tự xem xét nghiệp chướng nặng của mình.

Tổ sư đã dạy chúng ta phải siêng năng sám hối cho tiêu nghiệp. Ngài nói rằng những người có nghiệp thanh tịnh trong tu hành như chiếc áo không dơ bẩn. Vì vậy, khi họ xuất gia với tâm tư tốt, tuân theo đạo và cạo tóc, hình ảnh của Tỳ-kheo sẽ hiện ra và hình ảnh của Tỳ-kheo giải thoát cũng sẽ hiện ra.

Ngược lại, nếu nghiệp của Tỳ-kheo chưa thanh tịnh, như chiếc áo của chúng ta còn dơ, chúng ta cần siêng năng sám hối và rửa sạch trái tim bằng pháp Phật.

Trong mùa an cư, tại Trường Phật học Nam Việt, tôi không bỏ sót bất kỳ công việc nào của chúng tôi. Ngoài thời gian như vậy, tôi sám hối theo Thiên Thai. Theo lời dạy, sám hối đạt được cảm giác thấy Phật ở khắp mọi nơi, và đó là lúc chúng ta biết rằng nghiệp của mình đã hoàn thành. Tôi đã thực hành pháp này trong hơn mười năm, tập trung vào việc sám hối để thấy hảo tướng.

Theo Phật hoàng Trần Nhân Tông, sám hối bốn núi, tức là tịnh tại trạng thái tuyệt đối và sám hối. Nếu tâm tứ đại của chúng ta không điều hòa và không thanh tịnh, chúng ta cần tập trung sám hối vào những điều không điều hòa bên trong.

Sám hối Hồng danh, khi tôi còn trẻ, tôi thường đeo tượng Phật để nhớ và sám hối. Tôi may mắn được sống ở Chùa Ấn Quang tại Nam Việt, với một tượng phật thích ca đẹp. Tượng này đẹp ở chỗ nào? Đó là do của Hòa thượng Trí Hữu đã tạo ra với niềm tin sâu sắc. Ngài đã trì tụng toàn bộ kinh Pháp hoa và đốt một liều hương để cúng Phật, đến mức không còn chỗ đốt trên đầu. Ngài tiếp tục đốt hương trên cánh tay, đến khi không còn chỗ đốt nữa, Ngài đã phá lời nguyện bằng cách đốt một ngón tay và để ngón tay đó rụng.

Tôi hỏi Ngài liệu rằng liệu có cảm thấy nóng không, vì tôi chỉ cần nhìn thấy lửa là thấy nóng. Ngài trả lời rằng nếu nóng thì không dám đốt. Điều này chỉ khác nhau trên con đường tu hành.

Người tu trì khống chế bản thân, lạy Phật và thực hành Thiền để vượt qua sự chi phối của thân tứ đại và tách rời tâm và thân. Khi đạt được điều này, chúng ta đã vượt qua bốn tướng hàn, nhiệt, cơ và khát và bước vào cửa đạo. Hòa thượng Thanh Từ gọi cửa này là cửa Thiền, cửa Không và cửa Tâm.

Khi thực hiện tu hành và sống với tâm thanh tịnh, điều này khác biệt so với việc chỉ mặc áo tu. Khi Phật giáo suy vi, chúng ta ít thấy những người tu, nhưng lại dễ dàng tìm thấy những người tu khi Phật giáo hưng thịnh. Nhưng khi chúng ta thấy những người tu nhiều lên, chúng ta phải suy nghĩ về điều này.

Lịch sử Phật giáo Trung Hoa cho thấy điều này. Khi Phật giáo suy vi, chư Tăng ít, nhưng nhờ có cao tăng, Thánh Tăng, mọi người đều tận lòng vì đạo. Đường Thái Tông tôn trọng pháp sư Huyền Trang và những người tu, vì họ là những người tu tịnh nghiệp, là Hiền Thánh, là gương sáng mà chúng ta cần học tập.

Trước đó, trong thời đại Đường, từ Đường Thái Tông cho đến Đường Cao Tông và Đường Võ Hậu, chúng ta thấy sự ít người tu, nhưng nhờ có cao tăng và Thánh Tăng, mọi người đều tận lòng vì đạo. Đường Thái Tông tôn trọng pháp sư Huyền Trang và những người tu, vì họ là những người tu tịnh nghiệp, là Hiền Thánh, là gương sáng mà chúng ta cần học tập.

Quay lại vấn đề sám hối, chúng ta cần lạy Phật cho đến khi cảm nhận được hảo tướng. Theo kinh nghiệm của tôi, nhìn tượng Phật, đương nhiên ban đầu chúng ta tìm tượng Phật có hảo tướng để lạy, nhằm tạo độ cảm tâm giữa mình với Phật. Nhưng khi lạy Phật đến lúc thấy Phật nhìn mình mỉm cười, tức là ta đã đem được hình ảnh phật vào lòng mình rồi, thì nghiệp chướng trần lao của mình bắt đầu xóa bỏ.

Khi tôi còn là một học sinh Tăng, năm 1957, tôi mắc bệnh lao phổi. Hòa thượng Thiện Hòa đã chuyển tôi đến chùa Giác Ngộ để tránh lây bệnh cho đại chúng. Tại chùa đó, trong một mùa an cư, tôi đã siêng năng lạy Hồng danh sám hối. Sau mùa an cư đó, tôi đã khỏi bệnh, một kỳ diệu thật sự.

Vì vậy, tôi nói rằng sám hối là để giải thoát khỏi tiêu nghiệp. Khi tôi bị bệnh, tôi chỉ nghĩ về cái chết của mình và luôn ghi nhớ rằng nếu có Phật, thì chắc chắn tôi sẽ chết theo Phật. Điều này được gọi là tuyệt thể tuyệt mạng, khi chúng ta không có con đường nào khác, chỉ có thể làm theo Phật. Vì vậy, tôi đã quyết tâm đi theo Phật và nhờ đó, tôi đã trải qua những thay đổi kỳ diệu trong cuộc sống của mình. Cố Hòa thượng Thiện Hoa gọi điều này là sơn cùng thủy tận.

Nếu bạn coi mình đã chết và sống cuộc sống đạo, bạn sẽ thấy có hai cuộc sống. Một là cuộc sống thường ngày và hai là cuộc sống tu hành. Nếu chúng ta ở giữa hai cuộc sống này, chúng ta dễ rơi vào trạng thái lưng chừng giữa đạo và đời. Đôi khi chúng ta hướng tâm tu theo Phật, nhưng cũng có lúc bị trạng thái đời tấn công. Nếu chúng ta ở trạng thái lưng chừng này, chúng ta sẽ trở lại trạng thái đời.

Vì vậy, chúng ta cần quyết tâm tu hành để vào con đường đạo và đạt được sự cứu độ mà không cần phụ thuộc vào vật chất. Khi chúng ta đang còn sống trong cõi sinh tử, chúng ta nghĩ rằng chỉ bằng việc ăn những thứ này và không ăn những thứ khác mới có thể sống, nhưng qua con đường khác, chúng ta không nghĩ như vậy. Phật dạy người xuất gia không phải vì ăn mà khất thực và khi chúng ta làm như vậy, chắc chắn cuộc sống của chúng ta sẽ thay đổi một cách tích cực. Điều này có ý nghĩa gì?

Trong suốt thời gian chúng ta khất thực, chúng ta kiểm chứng tu hành của mình. Phật dạy người tu lạy Phật, thực hành thiền để vượt qua sự chi phối của thân tứ đại và tạo ra sự tách rời giữa tâm và thân. Khi đạt được điều này, chúng ta đã vượt qua bốn tướng hàn, nhiệt, cơ và khát và đi vào cửa đạo. Hòa thượng Thanh Từ gọi cửa này là cửa Thiền, hay cửa Không, hay cửa Tâm.

Chúng ta cần lạy sám hối để thấy được nhân duyên, những người có duyên với mình, và phát tâm hiếu kính. Nếu chúng ta chưa phát tâm và chưa thực hiện cúng dường, chúng ta cần nỗ lực tu hành để tránh những công việc trần tục. Nhưng nếu trong quá trình tu hành chỉ cần đi qua một hoặc hai nhà mà bình bát đầy, chúng ta có thể đậy nắp bát và trở về tịnh xá, biết rằng công đức của chúng ta đã được nhận. Nhưng ngay cả khi chúng ta ở trong tịnh xá, chúng ta cũng cần thực hành Thiền quán để nhìn thấy nhân duyên, thấy rằng đường này không ai cúng, đường khác có người cúng. Đây là khi quan nhân duyên xảy ra ngay tại điểm này. Đức Phật đã kể rằng những người mà Ngài đã truyền dạy và cứu độ, thấy được hảo tướng của Ngài ngay lập tức.

Như vậy, khi đi khất thực để thấy nhân duyên, chúng ta nhìn thấy những người có cùng duyên với mình, phát tâm kính siêng và cúng dường. Đối với những Tỳ-kheo không thanh tịnh, họ sẽ thoái tâm và chê ghét đạo Phật.

Hòa thượng Huỳnh Kim từng nói với tôi rằng một Tỳ-kheo đi tụng đám ma và hộ niệm. Sau khi tụng kinh xong, cả gia đình đám ma đến chùa và họ phát tâm theo Phật. Ngược lại, một Tỳ-kheo khác cũng đi tụng kinh đám ma, nhưng sau 49 ngày, gia đình đám không quay lại chùa nữa.

Vì vậy, Tỳ-kheo thanh tịnh khác với Tỳ-kheo không thanh tịnh. Tỳ-kheo không thanh tịnh vẫn còn nghiệp, còn thân nghiệp sát, đạo và dâm, làm cho tâm của người khởi tâm không tốt. Tôi nhắc nhở các Tăng Ni trẻ nếu gặp người yêu thương mình, hãy biết rằng đó là nghiệp mà chúng ta cần tránh, và nếu không tránh, chúng ta sẽ mất giới thân huệ mạng. Đối với những người trẻ, khi họ gặp người khác giới, tình yêu sẽ nảy sinh và nếu không cẩn thận, điều này có thể mất điều này.

Với tư cách Trưởng ban Trị sự Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh, tôi nhận thấy rằng số lượng Tăng Ni tại thành phố đang tăng lên. Điều này mang lại niềm vui nhưng cũng làm tôi lo lắng.

Phật giáo trạng thái suy giảm khi chư Tăng không tu hành. Tôi hy vọng rằng Tăng Ni sẽ trưởng thành với đạo lực mạnh mẽ. Hòa thượng Chủ tịch từng nói rằng Tỳ-kheo cần tăng cường đạo lực mạnh mẽ để xóa bỏ nghiệp chướng.

Đặc biệt, mùa an cư đã được Phật định cho cuộc sống tu hành của chúng ta và đã được Nhà nước chấp thuận và ủng hộ hoạt động này. Vì vậy, chúng ta cần hạn chế ngoại duyên và tập trung vào thực hành pháp Phật. Với những người đã có nghiệp, cần siêng năng sám hối để nhìn thấy Phật ở khắp mọi nơi và thấy hoa khắp mọi nơi nở.

Chúng ta cầu nguyện Tam bảo gia hộ cho tất cả hành giả an cư luôn sống an lạc trong chánh pháp, đoàn kết và hòa hợp, cùng nhau xây dựng đạo pháp tồn tại và phát triển.

Hòa thượng Thích Trí Quảng

1