Giới thiệu
Trong mỗi gia đình Việt Nam, bất kể là ở nông thôn hay thành thị, là gia đình nghèo hay giàu, đều có một bàn thờ tổ tiên được đặt trang trọng giữa căn nhà. Trên bàn thờ, có một khuôn kiếng lớn với hai màu đỏ vàng và bốn chữ Nho "Cửu Huyền Thất Tổ" được viết chính giữa. Hai câu đối "Tôn công thất tổ nghĩa cao thâm. Sùng đức cửu huyền ân thượng trọng" nổi bật hai bên bàn thờ. Mặc dù không hiểu rõ từng chi tiết, nhưng ý nghĩa của nó không nằm ngoài việc kính trọng ông bà, cha mẹ và ý nghĩa của việc có cội nguồn mới có thể tồn tại.
Ý nghĩa của "Cửu Huyền Thất Tổ"
Theo bài viết "Cửu Huyền Cửu Tộc" của Đào Hữu Chủ, "Cửu Huyền Thất Tổ" chỉ đến 7 vị tổ cách người cháu hiện tại là 9 đời. Chữ "Huyền" ở đây có nghĩa là đã xa. Cháu đời xa được gọi là Huyền tôn, xa hơn nữa gọi là Viễn tôn.
Trong gia phả, chúng ta thường gọi tổ thứ nhất là Thủy tổ, con của thủy tổ là tổ thứ hai, cháu của thủy tổ là tổ thứ ba và tiếp tục như vậy đến tổ thứ bảy. Từ đó, ngược lại, ông nội của chủ lễ là tổ đời thứ ba, cụ nội của người chủ lễ là tổ đời thứ tư, kỵ nội của người chủ lễ là đời thứ năm... Vì vậy, sự kết hợp này giúp làm rõ bảy vị tổ.
Theo ý nghĩa của Thiện Mộc Lan trong bài viết "Gia Lễ Việt Nam Với Đạo Thờ Cúng Ông Bà", "Cửu Huyền Thất Tổ" là biểu tượng chung. "Cửu" có nghĩa là chín, đây là con số thứ chín. "Huyền" có nghĩa là cháu 4 đời, gọi là huyền tôn. "Thất" có nghĩa là bảy. "Thất tổ" chính là bảy ông tổ trong gia đình. Thờ "Cửu Huyền Thất Tổ" là thờ tổ tiên 9 đời của dòng họ.
Trong nho giáo, cách thờ tổ tiên có thứ bậc từ dân đến vua như sau:
- Sĩ và thứ dân chỉ được thờ tới ông nội (Tổ thứ nhất).
- Các quan đại phu được thờ tới ông sơ (Tổ thứ ba).
- Hoàng đế (thiên tử) thì thờ tới ông sơ của ông sơ (Thất tổ).
Theo quy định này, thứ dân không được thờ Thất tổ. Nhưng muốn thờ những bậc cao hơn, thứ dân phải thờ "Cửu Huyền" để tránh việc dùng chữ "Thất tổ" sẽ bị xem như tội phạm.
"Cửu Huyền Thất Tổ" cũng có cách giải thích khác, lấy bản thân làm gốc, lên trên 4 đời và xuống dưới 4 đời. Của tổ thứ nhất là ông sơ, tổ thứ hai là ông cố, tổ thứ ba tức là ông nội và phụ thân (cha) của chủ lễ. Của bản thân là con trai, còn của con trai gọi là tôn, của cháu cố gọi là chắt, của cháu sơ gọi là chít.
Cho dù hiểu theo nghĩa nào, bốn chữ "Cửu Huyền Thất Tổ" đều không ngoài ý nghĩa là con cháu cần phải kính trọng và khắc sâu trong tâm khảm nhớ ơn ông bà, cha mẹ.
Hình ảnh
Hình ảnh minh họa: Cửu Huyền Thất Tổ
Kết luận
Dù lịch sử trải qua bao thăng trầm, dù chiến tranh đã cướp đi nhiều nhà cửa và nơi thờ tự tổ tiên, tình cảm hiếu kính ông bà, cha mẹ luôn được giữ gìn sâu lắng. Đây là niềm tự hào của người Việt Nam, luôn biểu hiện lòng tôn trọng và nhớ ơn tổ tiên, cha mẹ nhiều đời qua việc thờ cúng. Lòng kính trọng này đã được truyền từ thời cổ đại và duy trì trong lòng mỗi người dân Việt Nam.
Bàn thờ "Cửu Huyền Thất Tổ" hàng đêm luôn hương khói, đây là cách để nhớ đến tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Ngoài ra, trong suốt một ngày, chúng ta cần nhìn lại những việc đã làm và chưa làm, từ đó sửa đổi hành vi, đó là cách "Uống nước nhớ nguồn". Chúng ta cần nhớ rằng mọi hành động, suy nghĩ và lời nói của chúng ta đều có ảnh hưởng đến "Cửu Huyền Thất Tổ" trong hiện tại, tương lai và quá khứ.