Thấy Phổ Hiền Bồ Tát là thấy chân lý do đó chúng ta phải tránh xa mọi ảo vọng để trở về với chân lý. Gạt bỏ mọi vô minh, đừng lấy chân làm giả mà hãy dùng trí tuệ mà nhìn thẳng vào chân lý để được giác ngộ như chư Phật.
Bồ Tát là một trong những thể chư Phật, và trong Chư Tiểu Thừa thì có hai vị Bồ Tát đặc biệt quan trọng: Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Bên cạnh hai vị này, còn có Phổ Hiền Bồ Tát, người đứng bên trái Đức Phật, và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, người đứng bên phải. Tượng Phổ Hiền Bồ Tát thường được miêu tả cưỡi trên một con voi trắng sáu ngà hoặc tay chắp lại.
Vài đức tính của Phổ Hiền Bồ Tát
Bồ Tát luôn sống vì người khác, với tâm tình vị tha. Họ không có lòng ham muốn hay bám víu vào danh vọng và tinh thần tiếng tốt. Bồ Tát chỉ quan tâm đến công việc và sự phục vụ. Họ không màng đến sự khen ngợi hay chỉ trích. Bồ Tát tĩnh tâm và từ bi trước sự tán dương hay khiển trách. Họ có thể hy sinh cả mạng sống để cứu độ những người khác khỏi cõi chết. Bồ Tát thực hành tâm Bi (Karunã) và tâm Từ (Metta) đến mức cao độ. Họ chỉ mong muốn sự tốt đẹp và an lành cho thế gian. Bồ Tát có tình thương vô điều kiện, không phân biệt đối xử với bất kỳ ai. Họ đề cao tình thương đối với tất cả chúng sinh như tình thương của mẹ với đứa con duy nhất. Bồ Tát thực hiện tình cảnh bình đẳng giữa họ và tất cả chúng sinh, và đặt mình vào tình thế của người khác.
Có lòng tu hành tinh tấn như vậy, nên nay ngài đã thành Phật, ở cõi Bất Huyền và hóa thân vô số ở trong các thế giới mà giáo hóa chúng sinh.
Khi còn chưa xuất gia, Phổ Hiền Bồ Tát là con trai thứ tư của vua Vô Trách Nhiệm, được gọi là Năng Đà Nô. Nhờ lời khuyên của Phụ Vương, Thái Tử đã cúng dường Phật Bảo Tạng và thề với Phật rằng: "Con có món công đức cúng dường Ngài và đại chúng trong ba tháng, xin hồi hướng về đạo vô thượng Chánh giác, nguyện phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ Tát mà giáo hóa mọi loài chúng sanh, để thành Phật đạo và cõi Phật cùng với Phổ Hiền Bồ Tát." Phật đã chấp nhận lời thề này và trao cho Năng Đà Nô danh hiệu "Phổ Hiền Bồ Tát".
Gạt bỏ mọi vô minh, đừng lấy chân làm giả mà hãy dùng trí tuệ mà nhìn thẳng vào chân lý để được giác ngộ như chư Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát tượng trưng cho chân lý, trong khi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tượng trưng cho chân trí và lý trí dung thông. Phổ Hiền tượng trưng cho tình yêu thương, trong khi Văn Thù tượng trưng cho sự hiểu biết. Đức Phật sử dụng chân trí để đạt chân lý hoặc sử dụng từ bi, trí huệ để giúp đỡ chúng sinh. Do đó, hai Bồ Tát thường được đặt bên trái và bên phải Đức Phật.
Hình tướng Phổ Hiền Bồ Tát
Chúng ta thường thấy tượng Phổ Hiền Bồ Tát ngồi trên một con voi trắng sáu ngà. Con voi này tượng trưng cho sự giáo hóa và cứu độ chúng sinh, từ bề mê đến bến giác. Bồ Tát cầm chèo Lục độ để cứu độ chúng sinh đang chìm trong bể khổ. Mặc dù bể khổ rộng lớn và chúng sinh vô lượng, nhưng Bồ Tát không ngại khó khăn để cứu độ chúng sinh. Với chèo bố thí, buồm tinh tấn, mục tiêu thiền định và tay lái trí tuệ, Bồ Tát luôn kiên nhẫn tiến tới và cứu giúp chúng sinh.
Thấy Phổ Hiền Bồ Tát là thấy chân lý do đó chúng ta phải tránh xa mọi ảo vọng để trở về với chân lý.
Hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát
Khi nhìn thấy Phổ Hiền Bồ Tát, chúng ta phải nhìn thấy chân lý và tránh xa mọi ảo vọng để trở về với chân lý. Gạt bỏ mọi vô minh, đừng lấy chân làm giả mà hãy dùng trí tuệ để nhìn thẳng vào chân lý và giác ngộ như chư Phật. Chúng ta nên tuân theo 10 hạnh nguyện lớn của Bồ Tát để tiêu diệt ích kỷ hẹp hòi. Mười hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát bao gồm:
- Lễ kính chư Phật và khen ngợi Như Lai.
- Cúng dường và sám hối nghiệp chướng.
- Tùy hỷ công đức và thỉnh Phật chuyển pháp luân.
- Thỉnh Phật thường ở đời và theo học Phật.
- Hằng tùy thuận chúng sinh và hồi hướng khắp muôn đời.
Phổ Hiền Bồ Tát sau khi mạng chung, sinh ra các thân khác và các đời khác.
Phổ Hiền Bồ Tát đã trải qua nhiều kiếp sống và hóa thân trong các thế giới khác nhau nhờ lời thệ nguyện để thực hiện các công việc Phật sự và giáo hóa chúng sinh. Nhờ lòng tu hành và tấn tới cao, Phổ Hiền Bồ Tát đã trở thành Phật ở cõi Bất Huyền và hóa thân trong vô số thế giới để giáo hóa chúng sinh.