Xem thêm

Phật học lược khảo: Sự vĩ đại của Bồ-tát Địa Tạng

Phap Ngo Thich
Trong kinh Địa Tạng, phẩm Phân thân tập hội thứ 2, Đức Phật Thích Ca trước khi nhập Niết-bàn đã có lời phó chúc: "Địa Tạng ghi nhớ! Hôm nay Ta ở cung trời Đao...

Trong kinh Địa Tạng, phẩm Phân thân tập hội thứ 2, Đức Phật Thích Ca trước khi nhập Niết-bàn đã có lời phó chúc: "Địa Tạng ghi nhớ! Hôm nay Ta ở cung trời Đao Lợi, trong đại hội có tất cả chư Phật, trời, rồng, bát bộ nhiều đến trăm ngàn muôn ức không thể nói, đem trời, người các chúng sanh chưa ra khỏi tam giới, còn ở trong nhà lửa giao phó cho ông. Ông chớ để các chúng sanh đó rơi vào đường ác cho dù trong một ngày đêm". Lời huyền ký đó đã xác lập vị trí cũng như niềm tin tưởng vững chắc của Đức Phật đối với Bồ-tát Địa Tạng, bởi Phật biết rằng trong giai đoạn "tiền Phật-hậu Phật" này, khi Phật pháp ngày càng suy vong, chúng sanh càng cường khó độ, thì chỉ có bi tâm, nguyện lực kiên cố như Bồ-tát Địa Tạng mới có thể kham lãnh nổi việc giáo hóa độ sanh.

Bồ-tát Địa Tạng: Vị tướng độ chúng sanh

Bồ-tát Địa Tạng thường tùy nguyện ứng hiện vào thế giới Ta-bà bằng nhiều hình tướng sai khác để hóa độ chúng sanh. Dù vậy, chúng ta thường nhìn thấy Ngài dưới hình ảnh một vị Tỳ-kheo thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, đầu đội mũ tỳ lư quán đảnh, đứng hoặc ngồi trên con Đế thính. Lý do Ngài hiện thân tướng Tỳ-kheo là bởi bản nguyện của Ngài là cứu độ chúng sanh ra khỏi cảnh giới sanh tử, nên hình ảnh Ngài là một vị xuất gia giải thoát. Tay phải cầm tích trượng, trên đầu tích trượng có mười hai khoen để nói lên ý nghĩa Ngài luôn dùng pháp Thập nhị nhân duyên để giáo hóa chúng sanh. Tay trái Bồ-tát cầm hạt minh châu biểu thị trí tuệ. Bồ-tát với trí tuệ rộng lớn thường soi sáng tất cả chốn u minh khiến cho chúng sanh hiện đang bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát ngục hình. Bồ-tát cỡi con Đế thính là con linh thú, khi mọp xuống đất trong giây lát thì biết rõ tất cả sự vật trong trời đất, biểu trưng cho Ngài là vị đã nhiếp tâm thanh tịnh, an lập các pháp thức thành tựu cảnh giới thiền định.

Danh xưng Địa Tạng: Biểu tượng của sự chứa đựng và bác ái

Danh xưng Địa Tạng theo các kinh luận giải thích đã toát lên được bi tâm, nguyện lực kiên cố của Bồ-tát. Bài Tựa kinh Địa Tạng nói: “Địa là dày chắc, Tạng chứa đủ”. Địa Tạng thập luận nói: “An nhẫn bất động như đại địa, vắng lặng sâu kín giống như kho tàng nên gọi là Địa Tạng”. Kinh Phương quảng thập luận nói: “Địa Tạng là kho báu giấu kín trong lòng đất”. Tóm thâu ý nghĩa của danh xưng Địa Tạng, Địa là đất, dụ cho bản thể chân tâm khéo làm nơi nương tựa và sanh trưởng vạn pháp. Tạng là hầm báu, kho báu. Địa Tạng ý nghĩa là trong bản thể chân tâm có chứa vô lượng báu vật Phật pháp, có thể đem bố thí khắp khiến chúng sanh đồng được vô lượng công đức.

Hạnh nguyện độ sanh: Tâm nguyện vĩ đại của Bồ-tát Địa Tạng

Bồ-tát Địa Tạng trong cuộc hành trình tu tập của mình đã phát lập những thệ nguyện vĩ đại. Nội dung bốn lần phát thệ nguyện của Bồ-tát trong khi hành Bồ-tát đạo đều tóm thâu trong: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Với trí tuệ rộng lớn như hư không và lòng từ bi bao la ngập tràn như đại dương vô tận, Bồ-tát Địa Tạng luôn thấy tất cả chúng sanh là cha mẹ trong hiện tại và chư Phật trong vị lai. Vì thế, Ngài đã phát thệ nguyện độ hết nỗi khổ chúng sanh, khi nào trên cuộc đời này không còn một chúng sanh đau khổ, đều thành tựu Phật đạo thì Ngài mới yên tâm thọ dụng cảnh giới Niết-bàn.

Bồ-tát Địa Tạng đã đến với thế giới Ta-bà ác trược này chỉ vì một tâm nguyện duy nhất là cứu vớt tất cả chúng sanh đang lặn hụp trong đại dương sanh tử đưa lên bờ Niết-bàn. Cho dù chúng sanh có cang cường, nan điều nan phục đến mấy, Bồ-tát vẫn kiên trì không thối chuyển tâm nguyện, không bao giờ xa lìa ý niệm cứu độ chúng sanh. Tâm nguyện độ sanh của Ngài vững chắc như núi cao, công hạnh lợi ích nhân thiên rộng sâu như biển cả. Chúng ta không thể tán thán hết được công hạnh của Bồ-tát, thật đúng như hai câu kệ trong bài tán Phật đã nói: “Xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận”.

Mỗi khi niệm danh hiệu Bồ-tát, chúng ta lại nhớ đến hình ảnh và hạnh nguyện độ sanh vĩ đại của Ngài. Hãy cùng nhau học và đồng phát lập thệ nguyện: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Chỉ khi phát lập được thệ nguyện như thế, chúng ta mới có thể biến Ta-bà thành Tịnh độ, khiến tất cả phàm phu đều thành tựu quả vị Vô thượng Bồ đề và để báo đáp thâm ân của Ngài trong muôn một.

1