Xem thêm

HT Thích Thái Hòa: Phật thuyết A-di-đà kinh (Giới thiệu – Dịch – Chú giải)

Phap Ngo Thich
NGỎ Từ khi tôi lần đầu tiên vào chùa khi còn nhỏ, Bổn sư đã truyền cho tôi bản kinh "Phật thuyết A-di-đà" bằng chữ Hán, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập và dạy tôi học...

Kinhadida web 840x560 1

NGỎ

Từ khi tôi lần đầu tiên vào chùa khi còn nhỏ, Bổn sư đã truyền cho tôi bản kinh "Phật thuyết A-di-đà" bằng chữ Hán, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập và dạy tôi học thuộc lòng. Sau đó, tôi cùng với cộng đồng tụng kinh vào mỗi buổi chiều.

Lúc đầu, tôi tụng kinh mà không hiểu gì, nhưng tôi rất thích. Thích không phải vì hiểu, mà vì được cùng tụng kinh, lời kinh của Phật. Thích không phải vì hiểu, mà vì niềm tin xuất gia của tôi được đặt vào thời kinh mình tụng. Mỗi khi tụng kinh, tôi cảm nhận rõ ràng sự lớn lên của tâm linh. Tình yêu thương đối với chùa và tinh thần thiện lành lan tỏa khắp mọi nơi.

Với sự đẹp đẽ và thiêng liêng ấy, tôi cảm thấy nhẹ nhàng mỗi khi đi, đứng, nằm, nói, cười. Nhờ vào đó, tôi ngày càng trở nên lớn mạnh trong ngôi nhà Phật Pháp. Đến nỗi tôi không cảm nhận mình đã lớn lên, niềm tin xuất gia trong sáng từ thuở ấy đến tận ngày hôm nay vẫn còn nguyên vẹn.

Niềm tin của tôi không phụ thuộc vào việc tôi có chấp hành giới luật, tu thiền thành thạo, niệm Phật thông suốt hay học giỏi. Niềm tin của tôi tồn tại vì tôi được gia nghiệp của Thầy thừa nhận vào không gian của Phật để xông ướp hàng ngày trong ngôi chùa tự nhiên. Đó là sự tự nhiên trong xông ướp và sự tự nhiên trong biểu hiện.

Giáo dục thông qua xông ướp là sự giáo dục trong thế giới của chư Phật. Trong kinh A-di-đà, chánh báo và y báo trang nghiêm của thế giới Tịnh độ của đức Phật A-di-đà là từ nơi lời nguyện vĩ đại của Ngài mà tạo ra. Ngay cả các loại chim như Khổng-tước, Anh-vũ, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng có mặt trong thế giới Tịnh độ của đức Phật A-di-đà, tất cả chúng đều không xuất phát từ những hành động ác của loài súc sinh, mà đến từ lời nguyện vĩ đại của Phật A-di-đà, nhằm hát những tiếng hót mang lại âm thanh bất ngờ, khiến người nghe niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Mỗi khi người nghe chim hót niệm Phật, niệm chúng sinh không thể tạo nên. Mỗi khi người nghe chim hót niệm Pháp, những ý nghĩ xấu không thể nổi lên. Mỗi khi người nghe chim hót niệm Tăng, những suy nghĩ phiền muộn trong tâm đều tan biến.

Không chỉ tiếng hót của chim ở cõi Tịnh độ có tác động và xông ướp như thế, mà tiếng suối reo, tiếng mưa rơi, tiếng lá bay, tiếng gió thổi, hương thơm của hoa, mùi vị của nước, màu sắc của đất, tất cả âm thanh, mùi vị, hương thơm và sắc màu trong thế giới Tịnh độ của đức Phật A-di-đà đều có tác dụng kích hoạt và xông ướp, tạo ra hiểu biết tự do và an lạc một cách tự nhiên.

Tự nhiên đến nỗi, nếu ai muốn về Tịnh độ, hãy cố gắng tuân thủ danh hiệu của Phật từ một ngày đến bảy ngày, niệm Phật một cách chân thành, thì sẽ tự nhiên đến. Ngược lại, nếu không muốn về, thì tạm biệt. Ai muốn về, hãy mang theo hành trang tín hạnh và hy vọng để về. Ai không muốn về, hãy từ bỏ hành trang ấy.

Tín - Hạnh - Nguyện là điều kiện tối thiểu để kích hoạt và nuôi dưỡng phước đức. Tín là niềm tin. Không có niềm tin là không có hy vọng. Không có hy vọng là không có mục tiêu và sự phát triển. Vì vậy, Tịnh độ của chư Phật là cuộc sống của những người đầy sinh lực để vươn lên.

Hạnh là hành động dựa trên niềm tin và biến niềm tin thành sự thực tế. Tín và hạnh không thể tách rời nhau.

Nguyện là ôm ấp niềm tin và niềm hy vọng mà không bỏ cuộc trong bất kỳ tình huống nào. Nguyện là ôm ấp niềm tin và hành động, làm cho hai yếu tố này trộn lẫn với nhau, tạo thành sức mạnh mãnh liệt, khiến niềm tin nở hoa thành trí tuệ và hành động trở thành gốc rễ của lòng từ bi.

Nếu không có trí tuệ, chúng ta sẽ mãi mãi không được giải thoát và tự do. Nếu không có từ bi, chúng ta sẽ mãi mãi không được hạnh phúc và an lạc. Không có trí tuệ, chúng ta không thể tham gia vào dòng dõi của những người cao cả, trở thành vương tử của Pháp, trở thành tâm điểm của đạo Phật, đảm nhận trách nhiệm của đức Phật và không có từ bi, chúng ta sẽ không có lợi ích cho tất cả chúng sinh, không thể nuôi dưỡng trí tuệ đến trạng thái viên thành Phật đạo, để tạo thành y báo, chánh báo trang nghiêm trong cõi Tịnh độ. Chánh báo của Tịnh độ là trí tuệ và y báo của Tịnh độ là từ bi. Không có trí tuệ và từ bi, chúng ta không thể tham gia vào thế giới Tịnh độ, không thể hiện kiến với Tịnh độ của các vị Phật.

Đối với bản kinh này, khi tôi còn học tại Phật học viện Báo-quốc trước năm 1975, Hòa thượng Thích-đức-tâm đã dạy tôi về ý nghĩa của bản kinh phật thuyết A-di-đà này dưới sự hiểu biết của Nhị khóa hiệp giải. Sau đó, sau năm 1975, tôi lại được học về bản kinh này thông qua bản A-di-đà sớ sao của ngài Châu-hoành do Hòa thượng Thích-đôn-hậu dạy tại Phật học viện Báo-quốc Huế.

Trong thời gian hơn bốn mươi năm, tôi đã nghiên cứu, đọc và tụng, so sánh các bản dịch Phạn, Hán, Anh, cũng như các bản chú sớ từ các bậc đạo sư đối với bản kinh này. Và khi đủ nhân duyên, tôi dịch bản kinh từ tiếng Phạn sang tiếng Việt, đối chiếu hai bản Hán dịch của ngài La-thập và Huyền-tráng, cũng như đọc các bản dịch khác để tham khảo, nhằm có những phần dịch và chú giải chính xác, tránh những hiểu lầm và trải nghiệm cá nhân.

Bản dịch và chú giải này là công lao của các bậc đạo sư, giáo thọ sư, cũng như của Thầy, Tổ và bạn bè tri thức. Tuy nhiên, còn những sai sót trong bản dịch và chú giải này do khả năng học vấn của tôi chưa thông suốt, tôi xin thành thật xin lỗi và sám hối .

Chùa Phước-duyên Huế, Mùa nhập thất, PL. 2563 - DL. 2019 Tỷ khưu Thích-thái-hòa

1