Xem thêm

Đoàn Minh Huyên - Phật Thầy Tây An: Nhà sáng lập giáo phái phục vụ dân tộc

Phap Ngo Thich
Chân Dung Đức Phật Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên) Mở đầu Đoàn Minh Huyên (段明諠,[1] 14 tháng 11 năm 1807 - 10 tháng 9 năm 1856) - hay còn được biết đến với nghệ...

"Đoàn Minh Huyên" Chân Dung Đức Phật Thầy Tây An (Đoàn Minh Huyên)

Mở đầu

Đoàn Minh Huyên (段明諠,[1] 14 tháng 11 năm 1807 - 10 tháng 9 năm 1856) - hay còn được biết đến với nghệ danh Lê Hướng Thiện, biệt hiệu Giác Linh - được tín đồ tôn kính như một Phật Thầy Tây An. Ông không chỉ là người sáng lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, mà còn là một nhà yêu nước và nhà dinh điền đã có công hiền hoang nhiều vùng đất ở Nam Bộ (Việt Nam). Hãy cùng tìm hiểu về hành trạng và đóng góp của Đoàn Minh Huyên trong bài viết này.

Thân thế và hành trạng

"Chùa (hay đình) Tòng Sơn ở xã Mỹ An Hưng A (Lấp Vò). Tưởng nhớ công ơn, người dân đã lập ngôi thờ này tại quê hương ông." Chùa (hay đình) Tòng Sơn ở xã Mỹ An Hưng A (Lấp Vò). Tưởng nhớ công ơn, người dân đã lập ngôi thờ này tại quê hương ông.

Đoàn Minh Huyên sinh sống ở vùng Cái Tàu Thượng, thuộc làng Tòng Sơn, tổng An Thạnh, huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Sau này, với sự thay đổi lãnh thổ do thời Pháp thuộc gây ra, làng Tòng Sơn đã trở thành làng Mỹ An Hưng thuộc tổng An Thạnh Thượng, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp).

Năm 1849, khi Nam Kỳ chịu ảnh hưởng của vụ mất mùa và đại dịch kéo dài đến 1850, nhân dân lâm vào cảnh khó khăn, đau khổ và chết chóc. Trong hoàn cảnh đó, Đoàn Minh Huyên từ Tòng Sơn đã di chuyển đến Trà Bư (nay thuộc ấp An Thái, thị trấn Hội An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) và sau đó là vùng Kiến Thạnh (xưa thuộc làng Long Kiến, nay thuộc xã Long Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang), nơi ông trị bệnh và chữa lành cho dân.

Nhờ thành công trong việc chữa trị bệnh, ông đã thu hút nhiều bệnh nhân và người thân của họ nghe theo những lời khuyên dạy của mình. Thấy người tin tưởng ông ngày càng tăng, năm 1849, ông đã sáng lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương với tôn chỉ và phương pháp hành đạo rất đơn giản.

Mặc dù bị các quan chức nghi ngờ là gian đạo sĩ và hoạt động chính trị, Đoàn Minh Huyên không bị kết án và được phải tu tại chùa Tây An, dưới chân núi Sam (Châu Đốc). Từ đó, ông được người dân tin tưởng và tôn kính là Phật Thầy Tây An.

Mặc dù bị giới hạn cư trú, ông vẫn thường đi lại khắp miền sông Hậu, phổ biến giáo lý Tứ Ân và vận động dân nghèo khai hoang. Ông cũng đã thành lập 4 trung tâm dinh điền lớn gồm Đồng Tháp Mười (Đồng Tháp), Thới Sơn (Tịnh Biên), Láng Linh và Cái Dầu (đều thuộc Châu Phú).

Phật Thầy Tây An viên tịch vào ngày 10 tháng 9 năm 1856, lúc 49 tuổi. Hiện mộ ông nằm phía sau chùa Tây An (Châu Đốc). Ông có nhiều đệ tử giỏi, như Đức Cố Quản (Trần Văn Thành), Tăng Chủ (Bùi Đình Thân), Đạo Xuyến (Nguyễn Văn Xuyến), Đạo Lập (Phạm Thái Chung), Đạo Thắng (Nguyễn Văn Thắng) và nhiều người khác.

Sau này, tên của ông đã được đặt cho một trường trung học cơ sở tại phường Thới Sơn, thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang.

Đôi nét về giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương

"Tây An cổ tự (Long Giang, Chợ Mới). Khi xưa nơi đây là cốc ông đạo Kiến, sau đó Đoàn Minh Huyên đến tu và trị bệnh cho dân. Tưởng nhớ công ơn, người dân đã lập ngôi thờ này." Tây An cổ tự (Long Giang, Chợ Mới). Khi xưa nơi đây là cốc ông đạo Kiến, sau đó Đoàn Minh Huyên đến tu và trị bệnh cho dân. Tưởng nhớ công ơn, người dân đã lập ngôi thờ này.

Theo truyền thuyết của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, "Bửu Sơn" (núi báu) là Thất Sơn, trong đó núi Cấm được coi là linh thiêng nhất. "Kỳ hương" có nghĩa là mùi hương lạ. "Hội Long Hoa" sau thời Mạt pháp sẽ được Phật Di-lặc thành lập ở đó để đón nhận những ai biết tu hiền.

Giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương đã thu hút ngày càng đông tín đồ nhờ công việc tâm linh dễ dàng thực hiện. Họ quy y theo Đoàn Minh Huyên và được cấp một tấm "lòng phái" (mảnh giấy màu vàng có ghi bốn chữ "Bửu Sơn Kỳ Hương" màu son). Hành đạo theo giáo lý "học Phật - tu Nhân" nhằm tu tập theo giáo lý của Đức Phật, áp dụng những thuyết "Tứ ân (ơn)" bao gồm ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam bảo và ân đồng bào nhân loại.

Giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương không yêu cầu thờ tượng Phật, không yêu cầu ly gia cắt ái, không yêu cầu ăn chay, cạo râu tóc hay gõ mõ tụng kinh . Họ chỉ cần sử dụng nước cúng (nước lã) và bông cúng. Trong những lời sấm truyền của Phật Thầy để lại, có câu chúng ta có thể suy ngẫm:

  • "Chừng nào gốc mộc nên chồi, Ta vưng sắc lệnh tái hồi trần gian."
  • "Hay câu: Nay già đã hết già hóa trẻ, Nên giữa đông bổng lại có sông."

Giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương đã có sức ảnh hưởng đến các giáo phái khác như Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Hòa Hảo. Các ngôi trại ruộng mà Đoàn Minh Huyên lập ra ban đầu chỉ là hình thức, thực chất là nơi tập hợp nông dân chống lại chính sách cai trị hà khắc của triều đình Nguyễn. Sau này, khi thực dân Pháp xâm lược, các trại ruộng này trở thành căn cứ chống lại sự ngoại xâm và nhiều tín đồ của Đoàn Minh Huyên trở thành nghĩa quân để đền ơn đất nước. Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1867-1873) do Trần Văn Thành phát động là một minh chứng cho điều này.

Công đức

"Mộ Phật Thầy Tây An" Mộ Phật Thầy Tây An

Phật Thầy Tây An không chỉ là một nhà yêu nước tiềm ẩn dưới chiếc áo tu sĩ mà ông còn là người trị bệnh và chữa lành người. Ông cũng tập hợp nông dân nghèo để khai hoang và lan truyền tinh thần "Tứ ân". Trong số đó, tình yêu đối với đất nước luôn được tôn trọng. Cần lưu ý rằng những trại ruộng mà ông thành lập chỉ là hình thức, nhưng thực tế chúng trở thành căn cứ chống lại chính sách cai trị của triều đình Nguyễn. Khi thực dân Pháp xâm lược, những nơi này trở thành căn cứ chống lại sự xâm lược. Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa có thể coi là minh chứng cho điều này.

Giai thoại

"Khu đền mộ Phật Mẫu (mẹ Phật Thầy Tây An) ở Cái Nai (Hội An, Chợ Mới, An Giang)." Khu đền mộ Phật Mẫu (mẹ Phật Thầy Tây An) ở Cái Nai (Hội An, Chợ Mới, An Giang).

Nhiều người cho rằng Đoàn Minh Huyên có tên thật là Nguyễn Quang Mục, con của vua Quang Trung và công chúa Ngọc Hân. Tuy nhiên, ý kiến này chưa được các nhà sử học công nhận. Trong quá khứ, con của hoàng đế Quang Trung và công chúa Ngọc Hân không có tên là Nguyễn Quang Mục. Có thể rằng thông tin về con của hoàng đế và công chúa này đã bị mất hoặc bị lưu tán mà không được ghi lại trong sử sách. Tuy nhiên, với thân phận của vị hoàng đế và công chúa, không thể có chuyện sử sách không biết về họ.

Kết luận

Đoàn Minh Huyên, hay Phật Thầy Tây An, không chỉ là một nhà sáng lập giáo phái mà còn là một người yêu nước và đã có đóng góp đáng kể trong việc chữa bệnh và cải thiện cuộc sống của người dân nghèo. Giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, do ông sáng lập, đã có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến các giáo phái khác. Công đức và nguyện vọng của Phật Thầy Tây An đã được thể hiện qua những hành động và công trạng của ông trong suốt cuộc đời.

Tài liệu tham khảo

  • Nhiều người soạn, Địa chí An Giang (Tập 2), do UBND tỉnh An Giang tổ chức biên soạn và ấn hành, 2007.
  • Sơn Nam, Lịch sử An Giang, Nhà xuất bản Tổng hợp An Giang, 1988.
  • Sơn Nam, Cá tính miền Nam. Nhà xuất bản Trẻ, 1997.
  • Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
  • GS. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (quyển 2, mục từ "Phật Thầy Tây An"). Nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn, 1967.
  • Nhiều người soạn, Kỷ lục An Giang 2009, Nhà xuất bản Thông Tấn, 2010.

Liên kết ngoài

Các ông đạo ở Nam Bộ, Việt Nam: Đoàn Minh Huyên, Ngô Lợi, Phật Trùm, Sư Vãi Bán Khoai, Huỳnh Phú Sổ, Đạo Tưởng, Tăng Chủ, Cử Đa, Đình Tây

1