Khi Sự Khắc Nghiệt Gặp Phải Tinh Hoa Sáng Tạo
Hoà Thượng Quảng Độ, người hiện đang là Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và Xử Lí Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đã bắt đầu công trình phiên dịch cho cuốn "Phật Quang Đại Từ Điển" từ những năm 1980. Dưới những điều kiện và hoàn cảnh khắc nghiệt, công trình này đã trải qua nhiều thách thức và gián đoạn.
Thông qua cuộc phỏng vấn của phóng viên Ỷ Lan từ Ban Việt Ngữ (Đài Á Châu Tự Do), chúng ta sẽ được tiếp cận với những bước gian truân mà Hoà Thượng đã trải qua.
Một Dự Án Từ Điển Vĩ Đại
Ỷ Lan: Kính bạch Hoà Thượng Thích Quảng Độ, cuốn "Phật Quang Đại Từ Điển" gồm 6 tập, khoảng 8.000 trang, được thiết kế đẹp với bìa da mạ vàng và giấy quý, có minh hoạ cho các thuật ngữ, tông phái, tư tưởng Phật Giáo, và được phát hành tại nước ngoài. Xin Hoà Thượng cho chúng tôi biết Hoà Thượng bắt đầu công trình này từ khi nào?
Hoà Thượng Thích Quảng Độ: Tôi bắt đầu phiên dịch cuốn "Phật Quang Đại Từ Điển" khi tôi đang bị quản thúc và lưu đày ở Vũ Đoài vào năm 1990. Lúc đó, tôi chỉ làm được một ít, vì ở đó thiếu phương tiện, nên tôi quyết định phải về Miền Nam để có điều kiện làm tiếp.
Tôi trở về Miền Nam vào năm 1992 và tiếp tục công trình từ điển. Đến năm 1994, tôi gửi một tập nhận định về sai lầm của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật Giáo Việt Nam cho ông Đỗ Mười.
Sau đó, tôi bị bắt khi đang tham gia hoạt động cứu trợ. Năm 1995, sau nhiều ngày bị giam giữ, tôi và Hoà Thượng Không Tánh bị kết án 5 năm tù giam và 5 năm quản chế.
Cuốn Từ Điển Được Tạo Ra Trên Ngục Tù
Ỷ Lan: Vậy là công trình dịch từ điển chưa hoàn thành theo kế hoạch mà tiếp tục sau khi bị bắt vào năm 1995. Xin Hoà Thượng cho chúng tôi biết thêm về hoàn cảnh trong tù khi Hoà Thượng tiếp tục dịch cuốn "Phật Quang Đại Từ Điển" như một kỳ công hy hữu mà người học Phật phải tri ân.
Hoà Thượng Thích Quảng Độ: Trước khi vào tù, tôi đã nói với họ rằng tôi muốn đem theo cuốn từ điển "Phật Quang" mà tôi đang làm. Tôi đã nói rất nhiều lần nhưng vẫn gặp khó khăn. Tôi nói rằng cuốn từ điển này rất đặc biệt, nó gồm 7 tập, mỗi tập khoảng 1000 trang bằng chữ Hán. Tôi yêu cầu họ xem và kiểm tra từng trang để đảm bảo không có gì đáng ngờ. Sau khi họ kiểm tra và không phát hiện điều gì đáng ngờ, họ cho phép tôi đem cuốn từ điển vào tù để tiếp tục công việc.
Tôi đã nói rõ như vậy, nhưng mãi sau một thời gian người ta mới xét và cuối cùng đồng ý cho tôi mang cuốn từ điển vào. Tuy nhiên, khi tôi không kháng án, họ quyết định đưa cuốn từ điển ra khỏi tù. Ngày hôm sau khi tôi ra tù, thầy Thanh Minh đã đưa cuốn từ điển đó cho tôi để tiếp tục công việc. Nhưng họ không cho tôi tự mình mang theo, mà bản thân công an mang theo.
Khi tôi đến trại Ba Sao, sau một thời gian ngắn họ mới cho tôi cuốn từ điển. Nhưng không chỉ có 7 tập từ điển, họ còn đưa thêm cả trăm cuốn vở, trang giấy dày và rộng như trang giấy ngày nay, chỉ có kẽ dòng mà không có số trang. Chỉ sau một tuần, tôi mới nhận ra rằng chỉ có một cuốn từ điển được đưa cho tôi làm việc.
Tôi đã đề nghị họ đưa cả 7 tập từ điển vì mỗi tập có nhiều từ liên quan đến các tập khác. Tôi cũng đã yêu cầu họ đưa đủ 100 cây bút máy và 100 cuốn vở giấy. Tuy nhiên, họ chỉ để lại cho tôi 7 tập từ điển để tham khảo, còn 100 cuốn vở và bút, họ giữ lại.
Mỗi lần họ đưa cho tôi một tập, họ đánh số 80 trang. Họ cũng phát cho tôi một cây bút và ghi rõ thông tin của người bảo vệ tù nhân trong đó. Tôi nói rằng một tập không đủ, tôi muốn có cả 7 tập vì mỗi tập liên quan đến nhau. Tuy nhiên, họ yêu cầu tôi làm đơn xin cho trại trưởng để xin được cung cấp những tập từ điển đó.
Tôi cho rằng việc này không hợp lí, vì cuốn từ điển này là của tôi, không phải của họ. Tôi đã không gửi nó cho họ, mà họ chỉ đảm nhận việc giữ cuốn từ điển trong thời gian tôi bị giam. Nhưng họ yêu cầu tôi phải làm đơn xin. Vì lý do đó, tôi không xin và quyết định tự làm lại từ đầu.
Trái Tim Và Khát Vọng Vượt Qua
Tôi đã phải dành thêm 2 năm nữa để làm lại những gì tôi đã làm trong tù. Tôi không xin ai cả. Việc xin phải hợp lý, như khi ta xin ăn, ta cảm ơn người cho. Nhưng ở đây, công trình từ điển này là của tôi, họ chỉ giữ thôi. Tôi không gửi cho họ.
Tương tự như quần áo và tiền nong khác, người ta cung cấp cho tôi khi ở ngoài và họ sẽ nhận lại khi tôi không còn nhu cầu sử dụng. Tại sao chỉ có cuốn từ điển này phải làm đơn xin? Vì vậy, tôi không xin. Họ có thể giữ, còn tôi sẽ làm lại.
Vậy là tôi phải dành thêm 2 năm để làm lại những gì đã hoàn thành trong tù. Công việc mà tôi đã làm trong nhà tù, họ yêu cầu tôi phải xin điều đó. Tôi không đồng ý với việc này. Tôi không thấy lý do phải xin. Họ đã giữ tất cả những gì là của tôi, tiền nong của tù nhân cũng bị thu giữ và sử dụng cho mục đích khác.
Họ đã mượn tiền của tù nhân để mở cửa hàng và bán hàng cho chính những người tù. Họ mua hàng ở ngoài với giá rẻ và bán cho tù nhân với giá cao hơn. Đó, họ đã ăn một cách thật sự. Nhưng với cuốn từ điển này, họ giữ lại và gây phiền hà để có quyền yêu cầu tôi làm những gì họ muốn. Vì vậy, tôi không xin.
Tôi đã dành 2 năm để làm lại những gì đã hoàn thành. Tôi không xin ai. Xin phải hợp lí. Khi ta xin để nuôi sống mình, người ta cho, ta biết ơn. Nhưng ở đây, đây là của tôi mà họ giữ, không phải tôi gửi.