Hình ảnh minh họa cho bài viết
Kinh Viên Giác, một bộ kinh quan trọng trong giáo nghĩa Phật, mang cốt tủy là khai sáng và giác ngộ. Phật chỉ ra rằng "Tánh Viên Giác" tồn tại trong tất cả chúng sanh. "Viên Giác" là kết quả của tu tập, một trạng thái sáng suốt, tánh tròn đầy, và cũng là quả của Phật. Để đạt được Viên Giác, ta cần sử dụng "tâm trong tình trạng tịnh" để nhìn thấu sự vô minh. Sự vô minh và giác ngộ có mối liên kết chặt chẽ trong tâm hồn của chúng ta. Vì vậy, tánh giác không thể tồn tại mà không có sự vô minh. Sự có hay không có vô minh hoàn toàn là do ý thức của chúng ta. Qua những bài kệ dưới đây, Đức Thế Tôn muốn truyền lại ý nghĩa của kinh Viên Giác: (Các đoạn, hoặc kệ Phật nói trích trong kinh Viên Giác do TS. Thích Thanh Từ dịch từ Hán Văn)
Tổng quan về kinh Viên Giác
Văn thù ông nên biết: Tất cả các Như Lai, từ bản nhân địa, đều dùng giác trí tuệ để thấu suốt vô minh. Họ nhận thấy rằng những thứ tồn tại trong hư không không thực sự có ý nghĩa và tránh xa chuỗi luân chuyển. Nhưng lại như những người ở trong mộng, khi tỉnh giấc, thì không có gì tồn tại. Tánh giác giống như hư không, không sự biến đổi, không sự chuyển động. Giác trí tồn tại khắp mười phương cõi, và từ đó trở thành con đường đến chân lý Phật. Bằng cách xóa bỏ hư không, ta cũng đồng thời loại bỏ cả luân hồi. Tánh giác có thể được xem như là tâm hồn tròn đầy hoặc sự phát tâm Bồ Đề. Những người tu theo đạo này sẽ được giải thoát khỏi những quan kiến ác ý.
Tất cả các vị Phật đều dùng giác trí tuệ làm phương pháp tu tập để biến vô minh thành tánh giác. Phật chỉ ra rằng "Vô minh từ vô thủy đến bây giờ, các thứ điên đảo như người mê bốn phương đổi chỗ; họ vọng nhận tứ đại là tự thân, bóng dáng duyên theo sáu trần làm tướng tự tâm. Giống như con mắt bệnh thấy hoa đốm trong hư không và mặt trăng thứ hai. Này Thiện nam tử ! Hư không thực không có hoa mà người bệnh lầm chấp, do vọng chấp nên chẳng những lầm tự tánh của hư không mà cũng lầm luôn hoa ở trong hư không không thật có chỗ sanh. Do vọng chấp này mà có luân hồi sanh tử cho nên gọi là vô minh."
Giác Trí Tuệ và thực tập tu tập
Muốn thấu suốt vô minh, chúng ta cần phải hiểu rõ Giác Trí Tuệ và tu tập trong bản nhân địa. Vô minh thực chất là Tâm Thức của chúng ta. Tâm Thức được hình thành thông qua việc nhận thức các hiện tượng, mà ta sử dụng ý thức tác động lên sự vật và sự tương tác giữa ý thức và sự vật tạo nên tâm thức. Ví dụ, khi mắt nhìn một vật, thông qua võng mạt mắt, ta nhận thấy hình ảnh của vật đó và cùng với ý thức của ta (Trí) tạo thành nhãn thức. Nhãn thức hay tâm thức được hình thành thông qua sự kết hợp của lục trần và lục căn. [Bóng dáng của sự vật xuất hiện trong hư không, và do đó ta thấy tồn tại của nó tập trung ở võng mạt mắt. Hư không là vĩnh cửu, không bị phá hủy và luôn tồn tại, trong khi bóng dáng của sự vật không thực sự tồn tại và liên tục biến đổi]. Vì vậy, tâm thức không thực sự tồn tại, mà luôn thay đổi và biến mất. Ý thức tác động [hư không] thì luôn vĩnh cửu, không thay đổi và ổn định. Tâm thức này tương đương với vô minh.
Thực tế, vô minh là sự nhận thức nhầm lẫn của lục trần. Tương tự như nhãn căn, khi ta nhìn thấy một vật, ta chỉ nhìn thấy hình ảnh của nó mà thôi, ta tưởng tượng rằng ta thấy sự vật thật. Ta cũng tưởng rằng thân tứ đại là tướng tự thân, và lầm chấp tâm thức (lục thức) là tự tánh của hư không. Phật nói: "Thiện nam tử ! Vô minh này không có sự tồn tại cố định.
Như người trong mộng, trong mơ thì có tồn tại, nhưng khi tỉnh giấc, thì rõ ràng không tồn tại. Như hoa chỉ tồn tại trong hư không, chẳng có một chỗ định rõ ràng. Vì sao? Vì không có chỗ sinh tồn. Tất cả chúng sanh tồn tại trong vô sinh mà mong muốn có sự sinh tử, cho nên được gọi là luân hồi sanh tử. Người tu Viên Giác nhân địa của Như Lai biết "Không hoa" này là dứt luân chuyển. Cũng không có thân tâm thọ cái sanh tử lìa.
Cái đó không tồn tại từ ban đầu, cất cánh của nó là không vậy. Cái tri giác kia giống như hư không. Biết cái hư không đó là tướng không hoa cũng không thể nói là không có tánh tri giác. Có hay không đều không quan trọng, chỉ cần biết rằng tánh hư không là bất động. Trong Như Lai Tàng không có sự phá hủy, vì không có tri kiến như pháp giới tánh rốt ráo viên mãn khắp cả mười phương. Đó được gọi là nhân địa pháp hạnh. Bồ Tát nhân đây ở trong Đại Thừa phát tâm thanh tịnh. Những chúng sanh đời sau đã tu hành theo đó, tránh xa quan kiến ác ý.
Phương pháp tu tập và giải thoát
Tóm lại, hành giả muốn đạt đến Viên Giác, sau khi tuân thủ các quy tắc giới luật, tránh ái dục, ham muốn, lý chướng và sở chướng... Sử dụng ba phương pháp tu tập sau đây: Xa-Ma-tha là Chỉ, hay Định để làm sạch tâm trí, Tam-Ma-đề là Quán giúp tinh tấn tâm hồn như hư không, sử dụng đại bi tâm để giải thoát khỏi sự sinh tử, và Thiền-na để loại bỏ các tướng (tác, nhậm, chỉ, diệt) và loại bỏ các phiền não, đạt được trạng thái vô ngã. Khi thực hành Giác Trí Tuệ như đã trình bày, mọi quan kiến ác ý sẽ tan biến. Vì vậy:
-
Tri Thức đúng cái tri thức sai lầm của chủ khách (nhị nguyên) là giải thoát mọi mọi phiền não, nhân duyên chẳng chịt, là tùy thuận giác và cũng là Vô thượng đại giác tâm.
-
Giác Ngộ tức là Giải Thoát, chính là tri nhận Thực Tại một cách toàn diện không thêm không bớt, là vượt khỏi Thời Không, là trạng thái nhập vào Cõi Vô Cùng Hằng Hữu, vì Hư Không là ảo tưởng và Thời Gian là huyễn hóa tạo ra sự cách biệt giữa thế giới Hiện Tượng và Cõi Vô Cùng.
-
Nhận thức niệm đầu của Cảm Giác để có Chơn Thức (Giác Thức nguyên sơ). Tri nhận Chơn Thức mới có Giác Trí Tuệ (Tri Thức Nguyên Thủy), và xa lìa Tri Thức đó (Vô thời Gian). Trong tâm thể, chỉ có tánh giác, đó là chơn tâm. Khi giác trí tuệ không liên tục tạo ra sự lan tỏa trong hư không, thì trở thành Phật đạo hoặc Tánh Viên Giác bao trùm khắp mười phương.
Tóm lại, kinh Viên Giác khám phá sự giác ngộ và đạt được tự do khỏi luân hồi. Nó chỉ ra rằng thông qua tu tập và nhận thức đúng về vô minh, ta có thể đạt đến trạng thái Viên Giác và giải thoát khỏi những quan kiến ác ý. Qua cách thực hành Giác Trí Tuệ, ta có thể trở nên sáng suốt và tự do khỏi mọi ràng buộc.
Tham Khảo: Kinh Viên Giác Giảng Giải. TS. Thích Thanh Từ, trích những đoạn, kệ dịch từ Hán văn trong kinh xuất bản Phật Lịch 2542 - 1998 (Thông qua sự phổ biến của Phổ Nguyệt)