Xem thêm

Tiểu sử Hòa thượng Thích Nhật Quang (1940-2013)

Phap Ngo Thich
Hòa thượng Thích Nhật Quang - Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó ban kiêm Chánh Thư ký Ban Trị sự GHPGVN TP. Hồ Chí Minh, Chứng minh Ban...

Hòa thượng Thích Nhật Quang - Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó ban kiêm Chánh Thư ký Ban Trị sự GHPGVN TP. Hồ Chí Minh, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN Quận 5, Quận 10, Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Quận 10, Nguyên Chánh Đại diện Phật giáo Quận 10, Trụ trì Tổ đình Ấn Quang, Quận 10 và Viện chủ của Tổ đình Hội Sơn (Quận 9), chùa Thiện Mỹ (Quận 5) và chùa Bảo Tâm (Q.11)

I. THÂN THẾ

Hòa thượng Thích Nhật Quang, thân danh Trần Văn Trừ, sinh năm 1940 tại làng Long Bình, huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định (nay là Quận 9, Tp. Hồ Chí Minh). Hòa thượng sinh ra trong một gia đình trí thức, với thân phụ là cụ ông Trần Văn Thạnh và thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Thàng - pháp danh Diệu Đức. Là con thứ 8 trong gia đình có 9 anh chị em, Hòa thượng đã được truyền dạy Phật pháp từ nhỏ.

II. THỜI KỲ XUẤT GIA - TU HỌC

Vào năm 1952, khi mới 12 tuổi và vừa hoàn thành Tiểu học, Hòa thượng đã cảm thấy gắn kết với Phật pháp bởi ngôi nhà gần chùa. Bằng tâm niệm Bồ-đề, Hòa thượng quyết định xuất gia và tu học cùng với Sư trưởng Như Thanh, lúc đó là Trụ trì Tổ đình Hội Sơn (đời thứ 10).

Từ năm 1953 - 1957, sau khi tốt nghiệp Bằng Tú tài, Hòa thượng tiếp tục học Phật pháp với các bậc danh đức tại Tổ đình Phước Tường và Chùa Huê Nghiêm, mở ra nhiều cơ hội cho con đường Phật giáo và giáo hóa.

Năm 1958, Hòa Thượng nhận được Bằng Pháp tự THIỆN TRÍ và Pháp hiệu MINH QUANG từ Tổ Thiện Hòa, nguyên là Trị sự Trưởng Giáo hội Tăng già Nam Việt và Viện chủ của Tổ đình Ấn Quang. Trong năm này, Hòa Thượng cũng tiếp nhận giới Sa di tại giới đàn Chùa Pháp Hội, đánh dấu sự trưởng thành trong giới đức.

Năm 1964, 24 tuổi, Hòa thượng chính thức đăng đàn thọ giới Cụ túc và trở thành Tăng bảo. Kể từ đó, Hòa thượng không ngừng cống hiến cho Phật giáo và giúp đỡ những người khác tìm hiểu triết lý Phật, giảm bớt nỗi đau và khổ đau trong cuộc sống.

Năm 1969, Hòa Thượng tốt nghiệp Cử nhân toán học với thành tích xuất sắc. Năm 1970, Hòa Thượng nhận được bằng khen xuất sắc trong "Khóa tu nghiệp tân toán học" do Hội giáo sư Toán Việt Nam và Tổng vụ Văn hóa Giáo dục GHPGVNTN tổ chức.

Từ năm 1969-1975, Hòa thượng giảng dạy toán học tại các trường Trung học Bồ Đề Sài Gòn, Chợ Lớn và trường Trung Tiểu học Kiều Đàm, truyền đạt triết lý Phật giáo, giúp học sinh hiểu rõ đạo Phật, sống và thành đạt trong niềm vui và hạnh phúc.

Từ năm 1975 - 1980, Hòa thượng làm Thư ký Ban Đại diện Phật giáo Quận 5, Chợ Lớn, và tham gia nhiều hoạt động Phật sự quan trọng cho Giáo hội.

Từ năm 1980 - 1984, Hòa thượng làm Giáo thọ cho lớp Sơ cấp Phật học Thiện Hòa tại chùa Giác Ngộ và lớp Trung cấp Phật học Ấn Quang. Nhờ đó, Hòa thượng truyền dạy Phật pháp qua toán học cho nhiều thế hệ Tăng - Ni sinh, mà hiện nay, nhiều thành viên trong Giáo hội đảm nhận vai trò quan trọng.

Từ năm 1987 - 2002, Hòa thượng đã đảm nhận vai trò Chánh Đại diện Phật giáo Quận 10 và Ủy viên thường trực Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM trong 3 nhiệm kỳ liên tiếp, qua đó đạt được nhiều thành công trong công tác Phật sự.

Năm 2002 - 2007, Hòa thượng làm Phó thư ký kiêm Chánh văn phòng Ban trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM.

Năm 2007 - 2012, tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc GHPGVN, Hòa Thượng được bầu làm Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN. Tại Đại hội đại biểu Phật giáo TP.HCM, Hòa thượng được bầu làm Phó Ban Trị sự kiêm Chánh thư ký Thành hội Phật giáo TP.HCM. Trong vai trò này, Hòa thượng đã giúp đỡ thủ tục hành chánh cho nhiều tự viện, để Tăng Ni có thể tu học và phục vụ Phật sự một cách hiệu quả.

III. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO

Nhờ danh hiệu "Trụ pháp vương gia, trì Như Lai tạng" và sự tín nhiệm từ sơn môn, pháp phái và Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP.HCM, Hòa thượng được bổ nhiệm làm Trụ trì và Viện chủ của nhiều chốn tổ già lam, điển cử, bao gồm:

  • Năm 2000, Hòa thượng được bổ nhiệm làm Trụ trì Chùa Ấn Quang và Viện chủ của Tổ đình Hội Sơn.
  • Năm 2009, Hòa thượng được bổ nhiệm làm Viện chủ Chùa Thiện Mỹ (quận 5) và năm 2013, làm Viện chủ chùa Bảo Tâm (quận 11).

Ngoài việc trùng tu Tổ đình Hội Sơn, Hòa thượng còn trùng tu và xây dựng một số công trình quan trọng tại Chùa Ấn Quang, bao gồm Tổ đường, Trai đường và Thư viện (2006), Tháp thờ Xá-lợi và các bậc tiền bối hữu công (2009), Nhà Văn hóa và phòng phát hành của Tổ đình Ấn Quang (2011).

Dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng, Tăng chúng tại Tổ đình Ấn Quang và các tự viện khác ngày càng phát triển về đạo đức và tri thức. Chùa Ấn Quang trở thành điểm đến của nhiều Phật tử, học kinh và tu Bát quan trai. Nhờ sự hiệu quả trong công tác Phật sự, chùa Ấn Quang cũng đã trở thành trụ sở của Phật giáo TP.HCM và điểm tham quan tiêu biểu cho các hoạt động Phật sự, từ hoằng pháp, giáo dục, văn hóa cho đến từ thiện.

Trong suốt cuộc đời tu hành và hóa đạo, Hòa thượng luôn thể hiện tâm đức của một người con Phật, tuân thủ Giới Định Tuệ, tập trung vào phục vụ Tam Bảo và giúp đỡ chúng sinh. Hàng ngày, Hòa thượng đọc kinh, niệm Phật và luôn sống một cuộc sống tối giản. Với tình yêu và nụ cười, Hòa thượng tạo nên một môi trường giao tiếp gần gũi và thân thiện. Tăng - Ni và Phật tử dành sự kính trọng và tôn trọng đối với cuộc sống đạo đức của Ngài. Đôi khi, Hòa thượng lắng nghe, giữ vững quan điểm và tìm hiểu các phương pháp thích hợp, hiện đại hóa công việc hành chánh của Giáo hội. Hòa thượng luôn ghi nhớ câu nói của cố Hòa thượng Thích Trí Thủ và coi đó như là nguyên tắc hướng dẫn cuộc sống tu học của mình: "Những gì tôi làm cho Đạo pháp tức là làm cho Dân tộc. Những gì tôi làm cho Dân tộc tức là làm cho Đạo pháp." Trọn đời tu hành và phục vụ Phật giáo, Hòa thượng luôn tuân thủ nguyên tắc này.

IV. TUYÊN DƯƠNG CÔNG ĐỨC

Để ghi nhận và trân trọng những đóng góp cao quý của Hòa thượng trong 50 năm phục vụ Phật giáo và dân tộc, lãnh đạo GHPGVN và Nhà nước đã trao tặng cho Hòa thượng nhiều bằng khen và tuyên dương công đức. Điển hình là Bằng khen của Thủ tướng Nước Cộng hòa XHCNVN, Bằng khen của Ban Tôn giáo Chính phủ, Bằng khen của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP.HCM, Bằng khen của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM, Bằng Tuyên dương Công đức của Hội đồng Trị sự GHPGVN, Bằng Tuyên dương Công đức của Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM và nhiều giải thưởng khác.

V. THỜI KỲ VIÊN TỊCH

Cuối đời, Hòa thượng gặp phải những cơn bệnh và khó khăn sức khỏe. Hiểu biết rằng cuộc sống là vô thường và cái chết là không tránh khỏi, Hòa thượng thuận tâm chấp nhận mọi khổ thọ, kiểm soát cơ thể và tâm hồn mình, không sợ hãi bệnh tật và cái chết. Mỗi ngày, Hòa thượng vẫn tiếp tục tu hành bằng cách đọc kinh và niệm Phật, đối diện với sự suy yếu của thân xác.

Trong quãng thời gian cuối đời, Hòa thượng yên tĩnh viên tịch tại Tổ đình Ấn Quang vào ngày 30 tháng 8 năm 2013, hưởng thọ 74 tuổi, sau khi dành 50 mùa an cư kiết hạ. Công đức tu hành và phục vụ Phật pháp của Hòa thượng để lại dấu ấn không thể nào quên trong trái tim của chư tôn đức pháp lữ, môn đồ tứ chúng, Tăng Ni và Phật tử cả trong và ngoài nước.

Phật tử vô cùng biết ơn dường như vẫn nhìn thấy hình bóng của Hòa thượng trong đường Ấn Quang, từ Lâm tế Gia Phổ đến tứ thập nhất thế. Hòa thượng Thích Nhật Quang - một hiện thân của giác linh, mong rằng công đức của Ngài mãi mãi được chứng giám.

Ban tổ chức tang lễ

1