Quan Thế Âm là vị Bồ tát có đầy đủ phẩm chất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Trái tim những người con Phật thuần thành không thể không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ-tát giàu lòng bi mẫn này. Mỗi khi nói về Ngài, chúng ta ai cũng biết, nhưng chắc hẳn không ai dám cho là đã hiểu biết đầy đủ về Ngài.
Ngài là một vị Bồ tát đã chứng được "nhĩ căn viên thông", giác ngộ chân lý nên nghe được tất cả âm thanh, tiếng cầu cứu của muôn loài trong lúc lâm nguy. Trong kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn, Quan Âm Bồ tát phát ra mười hai đại nguyện, nguyện nào cũng vì lợi ích cho chúng sinh. Ngài ứng hiện ba mươi hai thân. Để cứu độ giáo hóa chúng sinh, từ cõi Ta bà đến khi chúng sinh mãn duyên cõi trần, Ngài và Ngài Đại Thế Chí trợ lực Đức Phật A Di Đà, tiếp rước vong linh sinh về Tây Phương Cực Lạc. Với từ lực vô biên, từ tâm rộng lớn của Bồ tát Quán Thế Âm, hễ nghe chúng sinh kêu cứu là Ngài thị hiện đến cứu ngay. Như con thơ cần có Mẹ, Mẹ mới đến bên giường ẵm bồng cho bú. Chúng ta cũng vậy, chỉ khi thành tâm nguyện cầu thì mới có cảm ứng. Với hạnh nguyện độ sinh, Ngài phát nguyện luôn luôn ở biển Nam Hải để cứu vớt chúng sinh sắp bị chìm đắm.
Chúng ta, là đệ tử của Phật, nên học theo lòng từ bi và hạnh nhẫn nhục của Mẹ hiền Quan Thế Âm để tiếp bước quý Ngài thực hành hạnh lợi tha và làm lợi ích cho quần sinh.
Đức Quan Thế Âm có thể hóa thân thành nam hay nữ tuỳ theo mục đích, từ cõi trần đến cõi trời. Ngày nay người ta vẫn truyền tụng hai kiếp giáng trần ứng với hai sự tích của Quan Thế Âm, đó là kiếp thứ 10 khi Bồ tát Quan Thế Âm là Diệu Thiện và kiếp cuối làm Diệu Thông. Sau khi thoát kiếp cuối cùng này, Ngài được chứng quả Phật Tổ tại Phổ Đà Sơn.
Sự tích Quan Thế Âm còn kể về sự ganh đua tình yêu giữa hai công chúa là Diệu Thanh và Diệu Âm với Thiện Sĩ. Diệu Thanh kết hôn với Thiện Sĩ, trong khi Diệu Âm quyết tâm đi tu. Diệu Âm sau đó quyết định ra ở chùa Bạch Tước để tu hành. Trong lúc tu hành, Diệu Âm được Bồ Tát Quan Thế Âm tiếp lễ và truyền pháp cho. Bồ Tát cũng ban cho Diệu Âm một trái bàn đào để giúp nàng trong tu hành. Sau chín năm tu hành, Diệu Âm trở thành một Bồ Tát chứng quả và được gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải và Phật Tổ Phổ Đà Sơn.
Truyền thuyết cũng kể về Diệu Trang Vương, vua của một quốc gia nhỏ gần Hưng Lâm, và Hoàng hậu Bửu Đức. Diệu Trang Vương và Hoàng hậu đã được cứu sống bởi Bồ Tát Quan Thế Âm khi cả hai bị mắc bệnh nguy hiểm. Vị Bồ Tát đã sử dụng phép thần thông để chữa trị và chữa khỏi bệnh cho vua và hoàng hậu. Nhờ vào sức mạnh của Bồ Tát, vua và hoàng hậu đã tìm được sự khỏe mạnh và quyết định rời xa cung điện để tìm đến vạn Phật đài và tận hưởng cuộc sống thiên thai.
Bồ Tát Quan Thế Âm là một vị chư Tôn Linh, đầy nhân ái và từ bi, luôn sẵn sàng lắng nghe và giúp đỡ chúng ta trong những lúc khó khăn. Sự tích Quan Thế Âm đã cho chúng ta một hướng dẫn về lòng từ bi và sự hy sinh, đồng thời truyền cảm hứng cho chúng ta tiếp tục theo đuổi con đường tu hành và làm lợi ích cho quần sinh.