Đời người giống như một giấc mộng, và chúng ta cần tỉnh giấc ngay bây giờ!
Nền tảng tôn giáo Phật giáo đã sử dụng những hình ảnh như ánh chớp, sương mai, bọt nước... để diễn tả tính vô thường của vạn vật, sự tồn tại và diệt vong ngay tại chỗ. Kinh Kim Cang cho biết tất cả các sự vật đều như một giấc mơ, mơ một cách mơ hồ, như một bong bóng nước, như sương mai, như tia lửa lóe lên giữa không trung. Kinh Lăng-già thậm chí cho rằng tất cả các sự vật "không thực, chỉ như chớp sét, cho nên được gọi là không thật". Điều này là đúng, nhưng không phải ai cũng nhận thức và chấp nhận điều đó, và đó là lý do dẫn đến khổ đau và ràng buộc của chúng ta. Do đó, chúng ta cần luyện tập để thấm thía và nhận thức sự thật này.
Quán chiếu thân thể là vô thường
Trước hết, chúng ta phải quán chiếu thân thể như một sự thực của vô thường. Từ khi sinh ra từ cha mẹ, lớn lên, trưởng thành, rồi sau đó già nua và mắc bệnh (dị), cuối cùng chúng ta phải chết (diệt). Quá trình sanh, trụ, dị, diệt diễn ra trong từng giây phút và chúng ta dần dần lớn lên mỗi ngày, đồng nghĩa với việc chúng ta đã mất đi từng ngày, tức là chúng ta đang vô thường, thay đổi. Ta không còn là mình hôm qua. Học phật gọi điều này là sự không giống nhau, không đồng nhất (phi nhất phi dị). Giống như khi nhìn xuống một dòng sông, ta thấy dòng sông không có gì thay đổi, vẫn là dòng sông đó, đồng nghĩa với việc nó không đổi. Nhưng nếu chúng ta quan sát kỹ, ta sẽ thấy rằng lượng nước trong dòng sông đã thay đổi từ giây trước, và đã được thay thế bằng một lượng nước khác, dòng sông khác, đồng nghĩa với việc không giống nhau. Thân thể chúng ta cũng vậy.
Đức Phật dạy chúng ta hãy quán chiếu thân thể là vô thường, nó rất dễ mất, để chúng ta đừng chấp thủ, đừng luyến ái mà khổ đau.
Chúng ta quán chiếu thân thể không phải để nhận thức rằng thân thể này không bền vững và bỏ bê nó hoặc hủy hoại nó. Hiểu như vậy là hiểu sai về quan niệm vô thường. Trái lại, Đức Phật dạy chúng ta hãy quán chiếu thân thể là vô thường, nó rất dễ mất, để chúng ta đừng chấp thủ, đừng luyến ái mà gây ra khổ đau. Thay vào đó, chúng ta phải sử dụng thân thể mong manh này để tìm kiếm giải thoát, và không tạo ra những hành động không tốt, gây đau khổ lâu dài sau này. Chúng ta phải sử dụng thân thể này như một chiếc thuyền, gọi là thuyền pháp thân, để đi qua dòng sông của sự sinh tử bằng những hành động có ý nghĩa, có lợi cho bản thân và người khác, mang đến sự an lạc và hạnh phúc.
Quán tâm về sự vô thường
Nhìn nhận vô thường cũng tương tự như vậy. Phật học, xuất phát từ quan điểm tôn giáo về giá trị cuộc sống con người, nhận ra năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), và các hành động vô thường đều mang đến khổ đau. Kinh Tạp A-hàm, số 437 nói: "Vì tất cả các hành đều là sự thay đổi, nên Ta nói rằng nếu có sự tồn tại thì chắc chắn sẽ có khổ đau".
Sự tồn tại này ám chỉ các trạng thái cảm xúc của chúng ta. Tóm lại, có ba trạng thái: cảm xúc khổ đau, cảm xúc vui mừng và cảm xúc trung tính (không khổ không vui). Tất cả các trạng thái đều vô thường, luôn thay đổi. Rõ ràng không ai vui mãi mãi, cũng không ai khổ mãi mãi. Cuộc sống của chúng ta là một chuỗi liên tục của niềm vui và nỗi buồn, xen kẽ giữa khổ đau và hạnh phúc. Tất cả đều trôi qua một cách lặng lẽ. Tâm niệm của chúng ta luôn thay đổi, trong việc sanh và diệt từng giây phút.
Theo dạy của Đức Phật, không chỉ những trạng thái khổ đau mới là khổ, mà ngay cả trạng thái hạnh phúc cũng đều là vô thường, và do đó cũng là khổ. "Tất cả đều là khổ". Tuy nhiên, lời dạy này có thể dễ dẫn đến hiểu lầm nếu ta chỉ nghĩ theo một hướng. Vì thông qua nhận thức sai lầm, chúng ta coi những thứ vô thường như thường tại. Sự vật luôn thay đổi mà chúng ta tưởng rằng nó là không đổi, chúng ta muốn nó không thay đổi, như mong muốn trẻ mãi không già... Đây chính là nhận thức và mong muốn sai lầm dẫn đến đau khổ. Chúng ta đau khổ không chỉ vì những sự vật và hiện tượng vô thường biến đổi, mà còn là vì sự tham ái chủ quan vào những gì mình ham thích, những gì không thuộc về mình.
Hoàn cảnh chúng ta sống cũng vô thường. Hoàn cảnh ở đây là chỉ cho tất cả mọi sự vật hiện tượng, từ sơn hà đại địa cho đến cành cây ngọn cỏ xung quanh ta, tất cả đều vô thường, biến đổi.
Hoàn cảnh chúng ta sống cũng là vô thường. Đây ám chỉ tất cả mọi sự vật và hiện tượng, từ những ngọn núi ở quê hương, cho đến những cánh cây và cỏ xung quanh ta, tất cả đều vô thường và biến đổi. Có người nhìn thấy ngọn núi từ khi sinh ra, trải qua hàng chục năm, vẫn cho rằng ngọn núi đó vẫn giữ nguyên. Nhưng thực tế là tất cả đều đang thay đổi, chỉ có điều việc thành, trụ, hoại, diệt của mỗi sự vật và hiện tượng diễn ra trong một khoảng thời gian dài hoặc ngắn thôi. Dù là lâu hay ngắn, tất cả đều biến đổi trong từng giây phút.
Vì sự biến đổi không ngừng của sự vật, không có sự duy trì tuyệt đối về bản chất của nó. Vô thường là một tên gọi khác của vô ngã. Theo quan điểm thời gian, sự vật là vô thường, theo quan điểm không gian, sự vật là vô ngã. Vô thường cũng có nghĩa là không có hình thức tuyệt đối, vì thực tại của mọi thứ thoát ra ngoài mọi khái niệm và lời nói. Vô thường cũng là duyên khởi, tức là tất cả mọi sự vật sinh ra và tồn tại do duyên phận gắn kết với nhau. Kinh Tạp A-hàm nói: "Sắc là vô thường. Nhân và duyên sinh ra các sắc cũng vô thường. Vậy, các sắc được sinh ra từ nhân và duyên vô thường, làm sao có thể là thường được?". Hơn nữa: "Sắc không phải là ngã. Nếu sắc là ngã, không nên có bệnh tật trong sắc và cũng không thể có mong muốn tương lai đối với sắc. Vì sắc là vô ngã, nên trong sắc có bệnh tật và thành tựu mong muốn, hoặc không đạt được mong muốn đối với sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng tương tự như vậy."
Hiểu thấu về vô thường để đạt trí tuệ tự tại
Đối với sắc (thọ, tưởng, hành, thức) không biết, không rõ, không đoạn tận, không giảm thiểu dục vọng, tâm không thể giải thoát, và không thể vượt qua nỗi sợ hãi về sinh, già, bệnh, chết. Do đó, Đức Phật khuyên chúng ta hãy luôn quan sát và nhận thức năm uẩn là vô thường: "Hãy quan sát sắc là vô thường". Quan sát như vậy được gọi là quan sát chân chính. Hiểu biết như vậy được gọi là hiểu biết chân chính. Khi đã quan sát và hiểu biết chân chính, chúng ta sẽ tức thì trở nên nhàm chán. Khi đã nhàm chán, chúng ta sẽ dừng lại việc tham muốn và ưa thích. Sự dừng lại tham muốn này được gọi là trí tuệ tự tại.
Đức Phật khẳng định: "Ai yêu thích sắc, thì cũng yêu thích khổ". Nếu chúng ta vẫn cảm thấy yêu thích trong khổ đau, thì còn gì mong chờ sự giải thoát? Tình trạng vui thích trong khổ đau đó được gọi là vô minh: "Vô minh là không biết, không biết tức là vô minh. Không biết những gì? Sắc là vô thường, mà không biết như thật sắc là vô thường". Trái lại là trí hay hiểu biết. Chỉ có hiểu biết mới mong muốn được giải thoát khỏi khổ đau: "Ai không yêu thích sắc, thì sẽ không thích khổ. Ai không thích khổ, thì sẽ được giải thoát khỏi khổ" (Kinh Tạp A-hàm).