Xem thêm

Lịch Sử và 48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà

Phap Ngo Thich
Hình Ảnh Tôn Tượng Đức Phật A Di Đà do Đại Đức Thích Đồng Pháp đồ họa Cảm nhận đầu tiên khi chúng ta nghe đến Đức Phật A Di Đà chính là lòng biết...

Hình Ảnh Tôn Tượng Đức Phật A Di Đà do Đại Đức Thích Đồng Pháp đồ họa Hình Ảnh Tôn Tượng Đức Phật A Di Đà do Đại Đức Thích Đồng Pháp đồ họa

Cảm nhận đầu tiên khi chúng ta nghe đến Đức Phật A Di Đà chính là lòng biết ơn và sự ngưỡng mộ vô bờ bến. Đức Phật A Di Đà đã có công đức lớn lao và hạnh nguyện

rất quảng đại. Anh em Phật tử chúng ta, những người chăm chỉ tu pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh Độ (Cực lạc), cần phải hiểu biết về lịch sử của Đức Phật A Di Đà và 48 lời nguyện của Ngài.

I. Giải Nghĩa Danh Hiệu "A DI ĐÀ"

"A Di Đà" là dịch âm chữ Amita. Hán dịch nghĩa là Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang. Vô Lượng Thọ nghĩa là tuổi sống lâu không có số lượng; Vô Lượng Quang, nghĩa là Ngài có hào quang sáng suốt không lường.

II. Lược Sử Tu Nhân và Chứng Quả Của Đức Phật A Di Đà

Đức Phật A Di Đà đã có nhiều kiếp tu hành và đạt được nhiều thành quả. Dưới đây là lược sử của Ngài trong 4 kiếp:

  1. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở phẩm Thí dụ, hóa thành: "Ðức Phật A Di Ðà, kiếp trước là con của đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai. Ngài nhờ công đức thường giảng kinh Pháp Hoa cho chúng sanh nghe, nên thành Phật hiệu là A Di Ðà, ở cõi Tây phương Cực lạc".

  2. Kinh Quán Phật Tam Muội Hải chép: "Ðời quá khứ Ngài làm Tỳ kheo, chăm lòng kính lễ quán tưởng tướng lông mày trắng của đức Phật Không Vương, nên được thọ ký là Phật hiệu là A Di Ðà".

  3. Kinh Bi Hoa chép: "Ðời quá khứ hằng hà sa kiếp trước, Ngài là vua Chuyển Luân tên là Vô Tránh Niệm. Ngài có một quan Ðại Thần tên là Bảo Hải, rất giàu lòng tín ngưỡng. Một hôm vua nghe Đức Phật Bảo Tạng đến thuyết pháp tại vườn Diêm Phù ở gần bên thành, Ngài với quan Ðại thần Bảo Hải liền đến nghe và rất hài lòng. Vua pháp tâm thỉnh Phật và đại chúng vào vương cung cúng dường trọn ba tháng để cầu phúc báu. Ðức Phật khuyên vua nên phát Bồ đề tâm cầu đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Khi đó Đức Phật Bảo Tạng liền phóng hào quang sáng ngời, soi khắp cả thế giới của chư Phật mười phương, cho chúng hội đồng thấy. Bảo Hải đại thần liền tâu với vua Vô Tránh Niệm: 'Nay Bệ hạ nhờ oai thần của Phật, được thấy các thế giới, vậy Bệ hạ muốn cầu lấy thế giới nào?'". Vua đảnh lễ Phật, quỳ gối chắp tay phát lời đại nguyện, cầu xin sau khi tu hành thành Phật, quốc độ và nhân dân của Ngài, đều được trang nghiêm thanh tịnh. Do nhơn duyên ấy, sau Ngài thành Phật hiệu là A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc.

  4. Đức Phật Thích Ca thuyết rằng: "Ðời quá khứ lâu xa, cách hơn 10 kiếp, có một nước tên là Diệu Hỷ, vua cha là Nguyệt Thượng Luân Vương, mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan. Vương hậu sanh ra ba người con: người con trưởng là Nhựt Nguyệt Minh, người con thứ hai là Kiều Thi Ca, người con thứ ba là Nhật Ðế Chúng. Khi ấy có Đức Phật ra đời hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai. Kiều Thi Ca bỏ ngôi vinh quí theo Phật Thế Tự Tại xuất gia, thọ Tỳ kheo giới, Phật cho hiệu là Pháp Tạng Tỳ kheo. Ngài Pháp Tạng đối trước Phật, phát 48 lời nguyện rộng lớn, độ khắp tất cả mười phương chúng sanh; nếu có một nguyện nào chẳng viên mãn, thì Ngài thề chẳng thành Phật. Khi ấy chư thiên rải hoa, tán thán, quả đất rúng động, giữa không trung có tiếng khen rằng: 'Pháp Tạng quyết định sẽ thành Phật hiệu là A Di Đà'".

Như vậy, chúng ta biết rằng tiền thân của Đức Phật A Di Đà là Thái Tử Kiều Thi Ca, bỏ ngôi vua, xuất gia tu chứng thành quả Phật là A Di Đà.

III. 48 Ðại Nguyện Của Ðức Phật A Di Đà

  1. Nguyện thứ 1: Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  2. Nguyện thứ 2: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, sau khi thọ chung, còn trở lại sa vào ba ác đạo, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  3. Nguyện thứ 3: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi có thân chẳng màu vàng tất cả, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  4. Nguyện thứ 4: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi có thân hình có kẻ tốt người xấu chẳng đồng nhau, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  5. Nguyện thứ 5: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng có Túc mạng thông, ít nhất là biết rõ những việc trăm nghìn ức na-do-tha kiếp, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  6. Nguyện thứ 6: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng đặng Thiên nhãn thông, ít nhất là thấy rõ trăm nghìn ức na do tha thế giới của chư Phật, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  7. Nguyện thứ 7: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng đặng Thiên nhĩ thông, ít nhất là nghe và thọ trì tất cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức na do tha Đức Phật, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  8. Nguyện thứ 8: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng được Tha tâm thông, ít nhất là biết rõ những tâm niệm của tất cả chúng sanh, trong trăm nghìn ức na do tha thế giới, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  9. Nguyện thứ 9: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi chẳng đặng Thần túc thông, ít nhất là đi qua khỏi trăm nghìn ức na do tha thế giới, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  10. Nguyện thứ 10: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, còn có quan niệm tham chấp lấy thân, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  11. Nguyện thứ 11: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, chẳng trụ định tu, nhẫn đến trọn diệt độ, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  12. Nguyện thứ 12: Lúc tôi thành Phật, nếu quang minh còn hữu hạn, ít nhất cũng chiếu thấu trăm nghìn na-do-tha thế giới, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  13. Nguyện thứ 13: Lúc tôi thành Phật, nếu thọ mạng còn hữu hạn, ít nhất cũng đến trăm nghìn ức na-do-tha kiếp, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  14. Nguyện thứ 14: Lúc tôi thành Phật, chúng Thanh Văn trong cõi nước tôi, nếu có ai tính đếm biết được số bao nhiêu, dầu đó là vô lượng Bích Chi Phật đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh giác.

  15. Nguyện thứ 15: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, thọ mạng còn hữu hạn, trừ người có bổn nguyện riêng, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  16. Nguyện thứ 16: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi, chẳng được Nhứt thế trí, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  17. Nguyện thứ 17: Lúc tôi thành Phật, nếu vô lượng chư Phật thập phương thế giới, chẳng đều ngợi khen xưng danh hiệu tôi, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  18. Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác; trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch, cùng hủy báng Chánh Pháp.

  19. Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh pháp Bồ đề tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  20. Nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi; và tu các công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  21. Nguyện thứ 21: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, tất cả chẳng đủ ba mươi hai tướng đại nhơn, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  22. Nguyện thứ 22: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi khác sanh về nước tôi, cứu cánh đều quyết đến bực Nhứt sanh bổ xứ, trừ người có bổn nguyện riêng, tự tại hóa hiện, vì chúng sanh mà phát hoằng thệ nguyện, tu các công đức, độ thoát mọi loài, đi khắp thế giới, tu Bồ Tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật, khai hóa vô lượng chúng sinh, làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo vô thượng chánh giác, siêu xuất công hạnh của các bậc thông thường, hiện tiền tu tập Ðại nguyện của Phổ Hiền, nếu chẳng như thế, tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  23. Nguyện thứ 23: Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước tôi, thừa thần lực của Phật, mà đi cúng dường thập phương chư Phật, trong khoảng thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô lượng vô số ức na do tha thế giới, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  24. Nguyện thứ 24: Lúc tôi thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước tôi, khi ở trước thập phương chư Phật, hiện công đức của mình, muốn có những vật cúng dường, nếu không được đúng như ý muốn, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  25. Nguyện thứ 25: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi, không được Nhứt thế trí, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  26. Nguyện thứ 26: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi, chẳng đều được thân kim cương Na-la-diên, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  27. Nguyện thứ 27: Lúc tôi thành Phật, thì trong cõi nước tôi, tất cả đồ dùng của nhơn thiên, hình sắc đều sáng đẹp sạch sẽ, rất tột vi diệu, không có thể tính biết, dầu là người được thiên nhãn. Nếu có người biết danh số các đồ vật ấy được rõ ràng, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  28. Nguyện thứ 28: Lúc tôi thành Phật, nếu Bồ Tát trong cõi nước tôi, dầu là người ít công đức nhứt, chẳng thấy biết được cội cây đạo tràng cao bốn trăm muôn do-tuần, vô lượng quang sắc, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh giác.

  29. Nguyện thứ 29: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong cõi nước tôi, nếu thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện tài, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  30. Nguyện thứ 30: Lúc tôi thành Phật, nếu có ai hạn lượng được trí tuệ biện tài của Bồ Tát trong cõi nước tôi, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  31. Nguyện thứ 31: Lúc tôi thành Phật, cõi nước tôi thanh tịnh, các nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghị thế giới ở mười phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như thế, tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  32. Nguyện thứ 32: Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi từ mặt đất tràn lên đến hư không, lầu nhà cung điện ao nước hoa cây, tất cả vạn vật đều là vô lượng chất báu và trăm nghìn thứ hương, hiệp chung lại mà thành; vạn vật đều xinh đẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp thập phương thế giới. Bồ Tát các nơi ngửi đến mùi thơm ấy, thì tu hạnh của Phật sẽ được thể hiện. Nếu chẳng như thế, tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  33. Nguyện thứ 33: Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, được quang minh của tôi chiếu đến thân tâm họ, thì thân tâm họ sẽ mềm dịu nhẹ nhàng hơn thiên nhơn. Nếu chẳng như vậy, tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  34. Nguyện thứ 34: Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu của tôi mà không được vô sanh pháp nhẫn, cùng các môn thâm-tổng-trì, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  35. Nguyện thứ 35: Lúc tôi thành Phật, các người nữ trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, vui mừng tin mến phát Bồ đề tâm, nhàm ghét thân gái. Nếu sau khi mạng chung mà còn làm thân người nữ nữa, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  36. Nguyện thứ 36: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh, mãi đến thành Phật. Nếu chẳng được như thế, tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  37. Nguyện thứ 37: Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong vô lượng bất tư nghị thế giới ở mười phương, nghe danh hiệu tôi, cuối đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tin mến tu Bồ Tát hạnh, thì chư Thiên và người đời đều kính trọng người đó. Nếu chẳng như thế, tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  38. Nguyện thứ 38: Lúc tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi muốn có y phục, thì y phục tốt đúng pháp liền theo tâm niệm của người đó mà đến trên thân. Nếu còn phải cắt may nhuộm giặt, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh giác.

  39. Nguyện thứ 39: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, hưởng thọ sự vui sướng không như vị Lậu tận Tỳ kheo, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  40. Nguyện thứ 40: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhơn thiên trong cõi nước tôi, tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới nghiêm tịnh của chư Phật ở mười phương, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  41. Nguyện thứ 41: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó nhẫn đến lúc thành Phật, mà các căn còn thiếu xấu, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  42. Nguyện thứ 42: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát, ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, thảy đều được giải thoát tam muội. Trụ tam muội đó, trong khoảng thời gian một niệm, cúng dường vô lượng bất tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà vẫn không mất chánh niệm. Nếu chẳng như thế, tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  43. Nguyện thứ 43: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung thác sanh nhà Tôn quí, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  44. Nguyện thứ 44: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hơn hở, tu Bồ Tát hạnh, trọn đủ công đức, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  45. Nguyện thứ 45: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, đều đặng Phổ đẳng tam muội, trụ tam muội này mãi đến lúc thành Phật, thường được thấy vô lượng bất tư nghị tất cả chư Phật. Nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh Giác.

  46. Nguyện thứ 46: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở trong cõi nước tôi, muốn nghe pháp gì, thì tôi sẽ tự nhiên đặng nghe pháp ấy. Nếu chẳng như thế thời tôi không ở ngôi Chánh Giác.

  47. Nguyện thứ 47: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác, nghe danh hiệu tôi mà chẳng được đến bậc bất thối chuyển, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

  48. Nguyện thứ 48: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được Ðệ nhất âm hưởng nhẫn, ở nơi Phật pháp chẳng liền được bậc bất thối chuyển, thì tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác.

Chúng ta thấy rõ rằng công đức của Đức Phật A Di Đà vô cùng rộng lớn, đến từ lòng đại bi và đại nguyện lợi tha. Ông đã từ bỏ tất cả ngai vàng cao quý, nguyện tu hành khi thành Phật, ở trên một cảnh giới huy hoàng trang nghiêm, để tiếp độ chúng sanh. Và qua một thời gian tu hành, công đức và nhân duyên của Ngài sẽ được kết quả, y báo và chánh báo đã xuất hiện rực rỡ như lời Ngài đã thề nguyện.

Do đó, tôi khuyến nghị tất cả Phật tử hãy noi theo gương đại nguyện của Đức Phật A Di Đà. Hãy phát tâm thệ nguyện rộng lớn, cầu khi lâm chung sanh về Cực lạc, hóa sanh từ hoa sen , tu chứng lên bậc Bất thối, rồi trở lại cõi Ta Bà hóa độ bà con quyến thuộc và tất cả chúng sanh tu hành, đồng thành Phật đạo.

1