Xem thêm

Kinh Vu Lan Báo Hiếu: Lời Nguyện Cho Cha Mẹ Trọn Đời

Phap Ngo Thich
Ý Nghĩa Của Kinh Vu Lan Báo Hiếu Bài kinh Vu Lan báo hiếu là một phần của Đại thừa, ghi lại sự tích ngày lễ Vu Lan và lời khuyên của Đức Phật với...

Ý Nghĩa Của Kinh Vu Lan Báo Hiếu

Bài kinh Vu Lan báo hiếu là một phần của Đại thừa, ghi lại sự tích ngày lễ Vu Lan và lời khuyên của Đức Phật với con cái. Không phân biệt giàu nghèo, con cái đều có thể thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ trong kiếp này và những đời trước bằng cách cúng dường vào Rằm tháng 7 âm lịch.

Tụng bài kinh Vu Lan để tưởng nhớ công đức cha mẹ và cầu nguyện cho cha mẹ được siêu độ. Nếu cúng dường đầy đủ và thành tâm, chúng ta không chỉ mang phúc cho cha mẹ còn sống mà còn giúp cha mẹ quá cố tăng thiện nghiệp và siêu thoát trong các kiếp sau.

Bài kinh Vu lan báo hiếu gửi gắm tâm tư, nguyện vọng được gánh đỡ nghiệp của cha mẹ, nguyện vì cha mẹ mà cầu khẩn sự hợp lực của chúng tăng, độ nguyện cho siêu thoát.

Bài kinh Vu Lan báo hiếu chứa đựng ý nghĩa cao quý, nhân văn và đại từ bi theo tinh thần Phật giáo. Mặc dù không đề cập trực tiếp đến tha lực, nhưng nội dung của kinh đã truyền tải ý nghĩa của việc hiếu thuận và giải thoát bằng lòng hiếu thảo của con cái.

Con người sống trên đời đều có nghiệp, và nghiệp đó là do chính mình tạo ra và gánh chịu. Con cái muốn mẹ cha được hưởng những điều tốt đẹp nhất, dù cha mẹ có tốt hay xấu. Bài kinh Vu Lan báo hiếu gửi gắm tâm tư, nguyện vọng được gánh đỡ nghiệp của cha mẹ, nguyện vì cha mẹ mà cầu khẩn sự hợp lực của chúng tăng, độ nguyện cho siêu thoát. Không chỉ là cha mẹ trong kiếp này, mà còn là cha mẹ trong 7 kiếp trước, bất cứ ai cũng có thể có duyên từng là cha mẹ của chúng ta.

Ngày lễ Vu Lan thể hiện sự hiếu đạo và tình thương vô điều kiện giữa chúng sinh. Khi con người có lòng từ bi, tinh thần tuệ lực cao, và mong muốn hoàn thành đạo hiếu và thiện tâm với tất cả chúng sinh, chúng ta có thể khơi dậy khả năng tự giác và giải thoát của người mà ta muốn cứu giúp, từ đó tránh khỏi những nghiệp ác.

Do đó, hãy tụng kinh báo hiếu ít nhất một lần vào ngày lễ Vu Lan hàng năm, để tấm lòng hướng về cha mẹ, trọn phận làm con và trọn đạo làm người.

Kinh Vu Lan Báo Hiếu

NGHI THỨC TỤNG

KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU

(Thắp 3 cây hương,quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài Cúng Hương)

CÚNG HƯƠNG

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo

Thề trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sanh

Cầu Phật từ gia hộ:

Tâm Bồ-đề kiên cố

Chí tu học vững bền

Xa bể khổ nguồn mê

Chóng quay về bờ giác.

(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)

KỲ NGUYỆN

Ngày lễ tháng Bảy là ngày mà chư Tăng hoàn hạ đức hiện. Chúng con thành tâm cúng dường và trì tụng Hồng danh đức Ngài. Nguyện cho tất cả ba ngôi Tam Bảo, Đức Bổn sư Từ phụ Thích-ca, Lạc Bang Giáo chủ Di-đà, cùng với Bồ-tát và các Thánh Tăng. Hiệp ba cõi mười phương Tăng chúng, mong từ bi tiếp độ hương linh. Cửu huyền Thất tổ siêu thăng, mẹ cha hiện thế phước tăng thọ trường. Khắp chúng sanh rõ đường đạo đức, thoát muội mê chứng bậc quang minh. Ngưỡng mong đức cả oai linh, từ bi thương xót chứng minh hộ trì.

NAM MÔ THẬP PHƯƠNG THƯỜNG TRỤ TAM BẢO. (3 lần)

(Đứng dậy cắm hương vào lư và đọc bài kệ tán thán Phật)

TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương Vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loại,

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận.

QUÁN TƯỞNG

phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo toạ thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

ĐẢNH LỄ

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta-bà Giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Hộ Pháp chư Tôn Bồ-tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A-di-đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát. (1 lạy)

(Đứng hay ngồi tùy ý, vô chuông mõ và đồng tụng)

TÁN LƯ HƯƠNG

Lò hương vừa bén chiên đàn,

Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương

Hiện thành mây báu kiết tường,

Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiềng

Pháp thân toàn thể hiện tiền

Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.

NAM MÔ HƯƠNG VÂN CÁI BỒ-TÁT MA-HA-TÁT. (3 lần)

CHÚ ĐẠI BI

NAM MÔ ĐẠI BI HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ-TÁT. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại
đại bi tâm đà la ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.

Nam mô a rị da, bà lô yết đế thước bát ra da, bồ đề tát đoả bà da, ma ha tát đoả bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát toả.

Nam mô tất kiết lật đoả, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đoả, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra, hô lô hô lô, hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà đạ, ta bà ha. Tất đà dủ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT. (3 lần)

KHAI KINH KỆ

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu.

Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu.

Con nay nghe thấy chuyên trì tụng.

Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ-TÁT. (3 lần)

PHẬT NÓI

KINH VU LAN BỒN

Ta từng nghe lời tạc như vầy:

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,

Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung,

Mục Liên mới đặng lục thông,

Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.

Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,

Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,

Làm con hiếu hạnh vi tiên,

Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm

Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ,

Không uống ăn tiều tuỵ hình hài,

Mục Liên thấy vậy bi ai!

Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.

Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu,

Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu,

Thấy cơm, mẹ rất lo âu,

Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn.

Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt,

Sợ chúng ma cướp giựt của bà,

Cơm đưa chưa đến miệng đà,

Hoá thành than lửa nuốt mà đặng đâu.

Thấy như vậy âu sầu thê thảm,

Mục Kiền Liên bi cảm xót thương,

Mau mau về đến giảng đường,

Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nàn.

Phật mới bảo rõ ràng căn cội.

Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu,

Dầu ông thần lực nhiệm mầu,

Một mình không thể ai cầu đặng đâu.

Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,

Tiếng vang đồn thấu đến cửu Thiên,

Cùng là các bậc Thần kỳ,

Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên vương

Cộng ba cõi sáu phương tụ tập,

Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi,

Muốn cho cứu đặng mạng người,

Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.

Pháp cứu tế Ta toan giảng nói,

Cho mọi người thoát khỏi ách nàn

Bèn kêu Mục Thị đến gần,

Truyền cho Diệu pháp ân cần thiết thi.

Rằm tháng Bảy là ngày Tự tứ,

Mười phương Tăng đều dự lễ này,

Phải toan sắm sửa chớ chầy,

Thức ăn trăm món, trái cây năm màu.

Lại phải sắm giường nằm nệm lót,

Cùng thau, bồn, đèn, đuốc, nhang, dầu,

Món ăn tinh sạch báu mầu,

Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.

Chư Đại Đức mười phương thọ thực

Trong bảy đời sẽ được siêu thăng,

Lại thêm cha mẹ hiện tiền,

Đặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn.

Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ,

Dầu ở đâu cũng tụ hội về,

Như người thiền định sơn khê,

Tránh điều phiền não chăm về Thiền-na.

Hoặc người đặng bốn toà đạo quả,

Công tu hành nguyện thoả vô sanh,

Hoặc người thọ hạ kinh hành,

Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng.

Hoặc người đặng Lục thông tấn phát,

Và những hàng Duyên Giác, Thanh Văn,

Hoặc chư Bồ-tát mười phương,

1