Xem thêm

CỐ ĐÔ CA TỲ LA VỆ - QUÊ HƯƠNG ĐỨC PHẬT GOTAMA

Phap Ngo Thich
Một khung cảnh rực rỡ và thú vị đang diễn ra trước mắt tôi khi chiếc xe buýt chạy qua một buôn làng sôi động, nơi địa phương tổ chức lễ hội tạ ơn ruộng...

Một khung cảnh rực rỡ và thú vị đang diễn ra trước mắt tôi khi chiếc xe buýt chạy qua một buôn làng sôi động, nơi địa phương tổ chức lễ hội tạ ơn ruộng bậc thầy. Trên con đường đông đúc, tôi ngạc nhiên với số lượng phụ nữ đang đi trên đường. Họ mặc những chiếc áo sari sặc sỡ, bay phất như cánh bướm vờn hoa. Cả nam và nữ, lớn và nhỏ, đều ra đường để ăn chơi, hát hò, và cảm tạ mùa lúa đầy thành công.

Dù nằm ở vùng biên giới, nhưng vì nằm trong khu vực đồng bằng, khu vực này dân cư rất đông đúc. Người dân ở đây chủ yếu làm nghề trồng lúa và canh tác các loại nông sản. Cảnh vật yên bình mang lại cảm giác thật thoải mái, giống như chuẩn bị trước khi đến với quê hương của Đức Phật.

Đoạn đường từ Lâm Tỳ Ni đến Ca Tỳ La Vệ chỉ cách nhau khoảng 27 km, nhưng mất gần 1 giờ để đi hết đoạn đường này. Khi tới nơi, chúng tôi phải đi bộ vài phút qua một làng quê giống như những làng ở miền Tây Nam Bộ. Có những rặng tre gai đong đưa trong gió, những chú trâu ngủ trên chuồng, nhìn chằm chằm vào chúng tôi với đôi mắt mi dài. Có cả con sếu đầu đỏ đáng yêu bên cạnh. Mảnh đất này thực sự là thiên đường của động vật hoang dã, nơi mà con người sống rất từ bi, hiền lành và yêu thiên nhiên.

Image Di tích thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilvastu) nằm tại vùng Tilaurakot, thuộc biên giới Ấn Độ và Nepal.

Những bước chân đầu tiên tiến vào khuôn viên cổ thành Ca Tỳ La Vệ, tôi nhìn thấy những phế tích đổ nát, hàng trăm ngàn viên gạch rêu phong và bào mòn sau bao năm tháng. Nhìn vào cảnh tượng này, tôi nghe những câu hát trong gia đình Phật tử về kinh thành của thái tử Sĩ Đạt Ta như vọng lại. Tình cảm và hình ảnh đó chỉ còn lại trong thơ ca và nhạc cụ. Cảnh tượng u ám này xuyên qua trái tim của du khách xa xứ. Mặc dù vậy, vài hàng gạch trong cảnh vật vẫn tồn tại, những hàng gạch này lan dài theo bờ kẽm gai sét rỉ, những cây cỏ nhún nhường với những bông hoa màu lửa... làm tôi cảm nhận sự sống và đẹp đẽ giữa những hoang tàn.

Chạm vào những viên gạch trong khuôn viên Ca Tỳ La Vệ, tôi như cảm nhận được những thế kỷ xa xưa. Thực sự, Ca Tỳ La Vệ là một điểm đến quan trọng, một trong những địa điểm linh thiêng liên quan đến một con người vĩ đại từ hơn 2.600 năm trước. Đầu tiên, nó cách Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật sinh ra, khoảng 27 km. Thứ hai, nó là nơi Đức Phật đã sống 29 năm đầu tiên trong cuộc đời. Thứ ba, đó là nơi ông tiên A-tư-đà đã ngồi thiền để xem tướng cho thái tử Sĩ Đạt Ta. Thứ tư, nơi mà 500 người trong dòng họ Thích Ca đã quy y thọ giới với Đức Phật. Và cuối cùng, nơi chư thiên đã xuống cầu Phật nghe pháp.

Về lịch sử, vào năm 636, Ngài Huyền Trang đã đến thăm thành cổ này và ghi lại chi tiết trong Đại Đường Tây Vực ký: "Thành Ca Tỳ La Vệ kiến trúc theo lối cổ kính, xây dựng toàn bằng gạch đá quý, bức tường thành vẫn còn, và kiến trúc rất kiên cố. Hiện tại chỉ còn 634 ngôi nhà và một ít dân cư sống ở đó. Xung quanh có gần 100 tịnh xá đã bị hư hại. Gần đó có một ngôi tịnh xá vĩ đại, 30 tu sĩ tiểu thừa và hai ngôi đền của Bà La Môn giáo".

Như vậy, kinh thành Ca Tỳ La Vệ không phải là một vương quốc lớn nhưng cũng rất giàu có. Theo truyền thuyết, khu vực này từng là một khu rừng hoang. Một thánh nhân tên Kapil Gautama (Ca Tỳ Cồ Đàm) đã khuyên thái tử Ikshwaku đến đây để lập nghiệp. Thái tử, được biết đến với tên Sakya, đã trở thành Sakya Gautama và đặt tên cho vương quốc của mình là Kapilvastu (Ca Tỳ La Vệ). Thái tử Sĩ Đạt Ta đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, được yêu thương vô điều kiện của hoàng thân quốc thích, được tôn trọng và ngưỡng mộ bởi toàn dân Sakya, và là niềm hy vọng và ngưỡng mộ của toàn bộ dân cư ở kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Từ những trải nghiệm và chứng kiến cuộc sống, từ sự giàu có và nghèo khó, từ những niềm vui và nỗi đau, từ sự sống mong manh và cái chết tạm thời... đã dẫn đến sự ra đi vĩ đại, ra đi vô tận, cuộc ra đi đã ghi danh vào trang sử và làm nên vận mệnh và sự phát triển của đạo Phật để cứu độ và mang niềm vui cho tất cả những sinh linh trên hành tinh này.

Một thành phố cổ chứa đầy kỷ niệm, một thành phố không thể tách rời với Phật giáo, một thành phố không chỉ là quê hương của Đức Phật mà còn là quê hương của hàng triệu người con Phật. Khi tưởng tượng về vẻ đẹp lộng lẫy của thành phố cổ, lòng tôi tràn đầy sự tiếc nuối và buồn bã. Bây giờ, trước mắt tôi chỉ là những phế tích: những bức tường đổ nát rêu phong, những thảm cây dại mọc khắp nơi, những hố gò chôn vùi trên lối đi không một bàn tay chăm sóc... Phía Tây còn lại một mảng gạch cũ và tấm bảng đánh dấu vị trí của các nhà khảo cổ. Cách cửa thành phía Tây hơn một cây số, cửa thành Đông nằm phiá sau, nơi mà nửa đêm, mùng 8 tháng 2 âm lịch, thái tử Sĩ Đạt Ta rời bỏ thành phố để tìm kiếm đạo giải thoát. Bên ngoài cửa thành Đông là cánh đồng rực rỡ, nơi mọi người và gia súc làm việc dưới ánh nắng ấm áp và yên bình. Cách cổng thành Đông khoảng 200m, có một tháp nhỏ được cho là nơi tuấn mã Kiền Trắc đã đứng và chết sau khi trở về thành phố từ cuộc du hành của mình.

Ngài Pháp Hiển đã đến thăm thành Ca Tỳ La Vệ vào năm 403 sau Tây lịch. Ngài đã nhìn thấy toàn bộ khu vực này chỉ là một rừng hoang cỏ dại, dân số thưa thớt và những di tích phế tàn. Vài tu sĩ khổ hạnh đang tu tập ở đây và khoảng 30 gia đình địa phương sinh sống. Ngài đã hỏi thăm các tu sĩ về những di tích này, và họ cho biết đó chính là thành Ca Tỳ La Vệ. Họ ở lại để bảo tồn di tích này, nhưng do thiếu nguồn lực để phục hồi, họ chỉ có thể ngắm nhìn nó bị tàn phá theo thời gian.

Có nhiều tài liệu ghi lại sự suy tàn của kinh thành lịch sử này, trong đó có câu chuyện liên quan đến dòng họ Thích. Theo truyền thuyết, vua dòng Ikshvaku tên Prasanjit (Ba Tư Nặc) muốn bang giao với dòng họ Thích, vì vậy ông đã gửi người để cầu hôn. Ngược lại, dòng họ Thích không muốn kết hôn với vua Ba Tư Nặc vì họ không tin rằng ông thuộc dòng Sát Đế Lợi. Thay vào đó, họ đã gửi Vasbhaktiya, một phụ nữ, cải trang thành công chúa để về với vua Ba Tư Nặc. Vua đã phong nàng làm hoàng hậu và không lâu sau, Đông cung thái tử Tỳ Lưu Ly được sinh ra. Khi thái tử Tỳ Lưu Ly trưởng thành và muốn về thăm quê hương, hoàng hậu Vasbhaktiya cản trở nhưng anh ta vẫn quyết định đi. Thái tử Tỳ Lưu Ly được tiếp đón như một quan khách và được cho ở tại sứ quán. Khi thái tử quay trở lại, sứ quán được rửa bằng sữa tươi. Một người hầu của thái tử đã quên đồ và trở lại sứ quán, chứng kiến cảnh này và kể lại cho thái tử. Anh ta tức giận và nguyền rằng không chỉ rửa sứ quán mà còn sẽ rửa cả thành Ca Tỳ La Vệ bằng máu.

Sau đó, thái tử Tỳ Lưu Ly đã lập kế hoạch để lật đổ ngôi vua trong lúc vua đang đi thăm Đức Phật để nghe giảng pháp. Khi vua nghe tin này, ông đã phải chạy đến Ma Kiệt Đà để lánh nạn, nhưng không may, ông đã chết giữa đường. Thái tử Tỳ Lưu Ly đã ba lần điều quân đánh Ca Tỳ La Vệ, nhưng hai lần đầu bị Đức Phật ngăn cản. Trên lần thứ ba, anh ta đã thành công. Thành Ca Tỳ La Vệ đã được rửa bằng máu của dòng họ Thích, và chỉ một số ít đã thoát khỏi lưỡi kiếm tàn ác đó. Tổng số người chết đã lên đến 9.990, kể cả trẻ sơ sinh cũng không thoát khỏi cái chém đáng sợ.

Từ đó, Ca Tỳ La Vệ đã trở thành một nơi hoang dã. Tuy nhiên, một số người đã đến đây xây dựng các ngôi đền để tưởng nhớ công đức của Đức Phật. Mặc dù không còn bất kỳ di tích lịch sử liên quan đến cuộc đời của Đức Phật nào tồn tại ở đây, nhưng còn rất nhiều học giả trong quá khứ đã tìm đến và ghi lại những kỷ niệm đó trong các bài viết để chúng ta có cơ hội tìm hiểu về quá khứ qua các sự việc từ xa xưa.

Trong khuôn viên cổ thành Ca Tỳ La Vệ, chúng tôi theo chỉ dẫn của người dân địa phương để tham quan một số di tích quan trọng đối với Phật giáo như mộ vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da, vườn Nigrodha ở làng Kudan, Sagarhava - nơi dòng họ Thích Ca bị vua Tỳ Lưu Ly sát hại...

Từ cổ thành Ca Tỳ La Vệ, tôi rời đi với lòng tiếc nuối. Đây là một vùng đất tràn đầy những điều kỳ diệu và sự hy sinh không hạn chế...

1