Thần chú vãng sanh vô cùng quan trọng cho nên người tu cần phải luôn trì niệm nhằm thú hướng đến chốn an lạc.
Những năm còn ở nhà đi học, buổi tối, tôi thường tham gia khóa lễ tụng kinh . Khi đến bài thần chú vãng sanh, chúng tôi thường niệm từ 3 đến 21 biến, với niệm mật như sau:
Vãng sanh quyết định chơn ngôn Bạt nhứt thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ Ðà ra ni Nam mô A Di Ða bà đạ Ða tha dà đa dạ Ða điệt dạ tha A Di rị đô bà tỳ A Di rị đa tất đam bà tỳ A Di rịa đa tỳ ca lan đế A Di rị đa tỳ ca lan đa Dà di nị, dà dà na Chỉ đa ca lệ ta bà ha
Cuối cùng, câu niệm: Nam mô A Di đà Phật
Sau khi tụng 21 biến, tôi cảm thấy tâm tư thân tâm nhẹ nhàng, không còn lo lắng về thế giới tâm linh, không sợ ma quỷ. Tôi đã trải nghiệm sự giải thoát theo lời cầu nguyện trong thần chú vãng sanh.
Điều quan trọng là hình ảnh thần chú vãng sanh vô cùng quan trọng cho người tu, và nên luôn luôn niệm thần chú này nhằm hướng đến chốn an lạc. Thần chú vãng sanh có tên đầy đủ là Bạt nhất thiết nghiệp chướng căn bản đắc sinh Tịnh độ Đà la ni.
Khi tôi đến núi để tu hành vào năm 1960, sư bảo tôi rằng những người mới chỉ là một chú tiểu không đủ phước để tụng chú Thủ Lăng nghiêm. Mọi người chỉ được tụng kinh Phổ môn, Thập chú... Cho đến khi có thọ giới pháp và trở thành Thầy, mang pháp y, thì mới được tụng chú Thủ Lăng nghiêm. Trong những ngày đó, cuộc sống trên núi thật khó khăn, nhưng chúng tôi kiên trì tụng kinh hàng ngày. Trừ khi cần phải tụng kinh, chúng tôi học phật pháp, làm công việc tu hành, đi hái măng, chặt củi, xây chùa.
Việc làm chú tiểu trên núi có ý nghĩa thật sự, và làm Sơn Tăng tại Tổ đình Linh Sơn Non bồng thì càng đáng quý. Ban đầu, tôi được gọi là "Lúa chắc, không lép", còn người tu Phật ở Tổ đình Linh Sơn là "Tu sĩ thật", "Thiền gia chân chánh". Tôi cảm thấy hãnh diện vì có thể làm phần của nơi này.
Ngoài việc tụng niệm chú Ðại bi và chú vãng sanh, tôi còn phát nguyện "Nguyện tu bất thối chuyển", sống gởi nạc, thác gởi xương. Tôi nguyện không rời khỏi núi suốt đời.
Khi tôi còn là một thiếu niên Tăng, được Thầy lớn dẫn tụng khóa lễ Tịnh độ tối, khi tụng chú vãng sanh, chúng tôi tụng như sau:
Vãng sanh quyết định chơn ngôn Bạt nhứt thiết nghiệp chướng căn bổn đắc sanh tịnh độ Ðà ra ni Nam mô A Di Ða bà đạ Ða tha dà đa dạ Ða điệt dạ tha A Di rị đô bà tỳ A Di rị đa tất đam bà tỳ A Di rịa đa tỳ ca lan đế A Di rị đa tỳ ca lan đa Dà di nị, dà dà na Chỉ đa ca lệ ta bà ha
Khi xuống núi, tôi vẫn tiếp tục tụng chú vãng sanh như trước:
Vãng sanh Tịnh độ thần chú Nam mô A Di Ða bà đạ Ða tha dà đa dạ Ða điệt dạ tha A Di rị đô bà tỳ A Di rị đa tất đam bà tỳ A Di rịa đa tỳ ca lan đế A Di rị đa tỳ ca lan đa Dà di nị, dà dà na Chỉ đa ca lệ ta bà ha
Khi tôi đến trụ trì tại Quan Âm Tu Viện vào năm 1968, dù tôi có tham gia nhập thất hay không, tôi luôn tụng 100 chuỗi chú vãng sanh mỗi ngày, cho đến khi có hòa bình.
Hôm nay, vẫn là một Hòa thượng, tôi tiếp tục tụng chú vãng sanh và khuyến khích chư Tăng Ni, Phật tử niệm chú này để hưởng công đức và cầu cho tâm linh của tổ tiên được an lạc. Đặc biệt, tôi khuyến khích những gia đình từng sử dụng bùa phép, Lục Xiêm, Lục Miên, Lục Lèo, và những người đã gây hại cho người khác, để tu pháp giúp làm sáng tỏ tâm hồn và chuyển hóa âm khí.