Xem thêm

Lời Phật dạy về giá trị đạo đức của một xã hội, quốc gia

Phap Ngo Thich
Phật giải thích về đạo đức trong xã hội Trong xã hội loài người, hiện tượng tham nhũng, bất công và gian dối đã trở thành vấn nạn từ khi có giai cấp và nhà...

Phật giải thích về đạo đức trong xã hội

Trong xã hội loài người, hiện tượng tham nhũng, bất công và gian dối đã trở thành vấn nạn từ khi có giai cấp và nhà nước. Điều này rõ ràng, không cần phải nói thêm. Từ tình trạng xã hội như trên, Phật đã dạy về đạo đức cho một quốc gia phát triển và một xã hội hòa bình, giá trị này vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Phật quan niệm rằng quốc gia bao gồm dân chúng và quốc vương. Điều này, ít nhất, Phật giáo quan niệm quốc gia không chỉ thuộc về vua mà còn áp dụng trong tinh thần của mọi người!

Tinh thần đạo đức: Một trong những nền tảng vững chắc để xây dựng hệ thống đạo đức

Trước hết, nói về dân. Một trong những chuẩn mực đạo đức để xây dựng một xã hội, một quốc gia phát triển là dân chúng phải đoàn kết, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau, đồng thời tôn trọng truyền thống và luật pháp. Vấn đề này được Phật đề cập trong kinh Đại bát Niệt bàn (kinh Trường bộ). Trong chuyện vua Ajatasattu của nước Magadha muốn xâm lược nước Vajjì, ông đã yêu cầu đại thần Vassakara đến hỏi ý kiến Phật.

Phật đưa ra 7 câu hỏi trước mặt Vassakara, nội dung như sau:

  1. Khi nào dân chúng thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau.
  2. Khi nào dân chúng thường hay tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết.
  3. Khi nào không ban hành những luật không được ban hành, không hủy bỏ những luật đã được ban hành, sống đúng với truyền thống đã được ban hành từ xưa.
  4. Khi nào dân chúng tôn sùng, kính trọng, đánh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão.
  5. Khi nào dân chúng không cướp bóc và cưỡng ép phụ nữ và thiếu nữ.
  6. Khi nào dân chúng còn tôn sùng, kính trọng, đánh lễ, cúng dường các miếu tự ở trong và ngoài tỉnh thành, không bỏ lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp.
  7. Khi nào dân chúng bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp với các vị A-la-hán ở tại nơi mình, khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ và những vị A-la-hán đã đến sẽ sống an lạc.

Cuối cùng, Phật kết luận:

"Khi nào bảy pháp bất thối được duy trì giữa dân Vajji, khi nào dân chúng Vajji được giảng dạy bảy pháp bất thối này, thì dân Vajji sẽ phát triển, không bị suy giảm."

Nghe xong, Vassakara chắp tay bạch Phật rằng: Chỉ cần dân chúng Vajji giữ trọn một điều thôi thì nước Magadha cũng không dễ gì xâm lược được!

Như vậy, ta thấy ngay rằng, sức mạnh của một đất nước xuất phát từ sự tôn trọng công lí và đoàn kết thành một khối thống nhất. Đây cũng là điều mà Nguyễn Trãi nhận xét về thất bại của nhà Hồ, cho nên: "Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hoà" (Thuận cơ trời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng thuận lòng dân).

Vai trò nhà lãnh đạo trong đạo đức

Muốn một xã hội an bình, cường thịnh còn phải có vai trò của người đứng đầu. Đương thời, Phật nhìn thấy rất rõ về bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội và Ngài chứng minh rằng: Toàn thể xứ sở có thể trở thành đồi trụy, thối nát và bất hạnh, nếu vua quan đều thối nát và bất công. Theo Phật, muốn một quốc gia hạnh phúc phải có nền chính trị công bằng, mà phần cốt tử đóng góp cho sự công bằng là từ đời sống đạo đức, sống thiện của người cầm đầu. Do vậy, Ngài thuyết Thập vương pháp với nội dung:

  1. Là sự rộng rãi, bồ thí, bác ái. Người cai trị không được thèm khát và bám víu vào tài sản, tiền của mà phải bồ thí cho dân tộc no âm.
  2. Phải có một đức tính cao đẹp. Làm vua không bao giờ được sát hại, lừa bịp và bóc lột kẻ khác, tà dâm, nói lời sai quấy, rượu chè. Ðiều này có nghĩa là, chí ít ông vua cũng phải giữ năm giới của nhà Phật.
  3. Hy sinh tất cả vì hạnh phúc của dân chúng. Ông vua phải sẵn sàng từ bỏ mọi tiện nghi cho cá nhân mình, tên tuổi danh vọng và ngay cả sự sống của mình vì lợi ích của dân.
  4. Trực hạnh. Ông vua phải xa lìa sự sợ hãi và thiên vị khi thi hành công vụ, phải thật trong ý định và không được lừa bịp dân chúng.
  5. Khổ hạnh. Ông vua phải sống một cuộc đời giản dị, không được xa hoa, đồng thời phải biết chế ngự bản thân mình.
  6. Nhu hòa. Ông vua phải có tính tình hòa nhã.
  7. Không thù hằn ác độc. Ông vua không được có tư thù và tâm địa độc ác với bất cứ ai.
  8. Bất hại. Ông vua không làm hại ai mà còn phải cố tạo hòa bình bằng cách tránh và ngăn ngừa chiến tranh hay sự dính dáng đến bạo động, sát hại chúng sinh.
  9. Nhẫn nại. Ông vua phải chịu đựng khó khăn, khổ cực và những sự nhục mạ mà không mất bình tĩnh.
  10. Không đối lập, không ngăn cản. Ông vua không được đi ngược với ý chí của toàn dân, không được ngăn cản bất cứ biện pháp nào đưa đến sự lợi lộc cho toàn dân. Nói cách khác là ông vua phải cai trị thuận với ý chị của dân tộc.

Ngoài ra, trong kinh Kừtadanta (kinh Trường bộ, tập III), Phật còn dạy rằng, các hình phạt sẽ không hiệu quả, không thành công, không công bằng và lợi ích bằng việc cải thiện kinh tế...

Như vậy, trên cơ sở của thuyết nghiệp, Phật muốn trước hết con người phải làm thiện từ tâm, thân, khẩu, chính cái này đem lại hạnh phúc cho mình, cho người và cho xã hội. Rồi sau đó, hành giả buông xả tất cả theo tinh thần vô ngã để tiến tới bờ mé của sự giải thoát viên mãn.

Chú thích:

(1). Kinh Trường bộ, tập 1, bản dịch của Thích Minh Châu, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1991, tr.545.

(2). Triệu Anh Dung, Hán học danh ngôn, Nxb.Ðồng Nai 1995, tr.234

(3). Ðọc Walpola Ràhula, Tư tưởng Phật học, bản dịch của Thích nữ Trí Hải, Ban Tu thư Ðại học Vạn Hạnh, Sài Gòn 1974, tr.140-142; Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, tr.134-135.

(4). Kinh Tăng chi bộ, tập II, bản dịch của Thích Minh Châu, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1996, tr.425.

(5). Kinh Pháp cú, bản dịch của Thích Thiện Siêu, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành 1993, tr.25-26.

1