Xem thêm

Lịch sử Phật giáo ở Ấn Độ: Từ Tất-đạt-đa Cồ-đàm đến hiện tại

Phap Ngo Thich
Tháp Mahabodhi, một Di sản thế giới của UNESCO, là một trong 4 thánh tích của Phật Thích-ca, nơi ông đã chứng đạo. Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn nhất trên thế...

Lịch sử Phật giáo ở Ấn Độ Tháp Mahabodhi, một Di sản thế giới của UNESCO, là một trong 4 thánh tích của Phật Thích-ca, nơi ông đã chứng đạo.

Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn nhất trên thế giới, đã phát triển và lan rộng từ vương quốc cổ Magadha, Ấn Độ. Thành lập trên cơ sở lời dạy của Tất-đạt-đa Cồ-đàm, được biết đến với danh hiệu "Phật" hoặc "người thức tỉnh". Điều đáng chú ý là Phật giáo đã tồn tại và phát triển khi Đức Phật còn sống.

Dưới triều đại của vua Ashoka nhà Maurya, một vị vua Phật tử, Phật giáo chia thành hai nhánh chính: Đại chúng bộ và Phật giáo Nguyên thủy (Sthaviravāda). Hai nhánh này đã lan truyền và phân nhánh khắp Ấn Độ. Hiện nay, hai nhánh lớn của Phật giáo vẫn còn tồn tại là Nam Tông (Theravada) ở Sri Lanka và Đông Nam Á, và Bắc Tông trải dọc dãy Himalaya và Đông Á.

Tuy công cuộc thực hành và tổ chức Phật giáo đã mất đi sự ảnh hưởng sau triều đại Gupta, khoảng thế kỷ thứ 7, và hoàn toàn biến mất ở một số vùng đất vào đầu thế kỷ 13 do sự xâm lược của quân đội chính quyền Hồi giáo, nhưng tác động của Phật giáo vẫn còn rất lớn. Hiện nay, Phật giáo đặc biệt phổ biến ở khu vực Himalaya, bao gồm Sikkim, Ladakh, Arunachal Pradesh, các vùng đồi núi Darjeeling ở Tây Bengal và khu vực Lahaul và Spiti vùng trên Himachal Pradesh. Ngoài ra, di tích của Phật giáo cũng được tìm thấy ở Andhra Pradesh, nơi Phật giáo Đại thừa bắt nguồn.

Phật giáo đã trở lại Ấn Độ vào giữa thế kỷ 20 với phong trào Phật giáo Dalit do Bhimrao Ambedkar lãnh đạo, nhằm thúc đẩy việc cải đạo từ Hindu giáo sang Phật giáo cho người dân Ấn Độ. Theo thống kê dân số năm 2010, đông đảo Phật tử chiếm khoảng 0,8% dân số Ấn Độ, tức là khoảng 9.250.000 người.

Tất-đạt-đa Cồ-đàm

Đức Phật sinh ra tại Lâm-Tỳ-Ni, đồng bằng miền Trung, Nepal, là con trai của Tịnh Phạn - thủ lĩnh dân Shakya tại Kapilvastu. Sau khi tu hành và thiền định theo phong cách của Samana, Đức Phật đã khám phá ra Trung đạo của Phật giáo, một con đường trung lập điều độ giữa sự thèm khát và sự kiêu ngạo.

Tất-đạt-đa Cồ-đàm đã đạt giới giác ngộ khi ngồi dưới cây bồ đề, tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Sau đó, ông được gọi là "người tự giác ngộ hoàn hảo" hay Phật. Đức Phật nhận được sự bảo trợ từ vua Tần-bà-sa-la, nhà vua cai trị Magadha và đã cho phép thành lập "tịnh xá" Phật giáo. Điều này dẫn đến thay đổi tên của vùng đất này thành Bihar.

Tại khu bảo tồn công viên hưu gần Varanasi, miền bắc Ấn Độ, Đức Phật đã bắt đầu những buổi giảng đầu tiên, gọi là "Chuyển Pháp luân", cho một nhóm năm người đã giác ngộ trước đó. Năm vị Tỳ-kheo đó trở thành năm vị đệ tử đầu tiên của ông và là nhân tố quan trọng đầu tiên của Tăng-già, một trong "Ba ngôi báu" hay Tam bảo của Phật giáo: Phật, Pháp, Tăng, tương ứng với giác ngộ, giáo pháp của giác ngộ và cộng đồng Phật tử.

Trong những năm còn lại của cuộc đời, Đức Phật đã đi du lịch qua đồng bằng Bắc Ấn Độ sông Hằng và các vùng lân cận. Cuối cùng, ông đạt giới Niết Bàn tại Kushinagar.

Chú thích

1