Kiến thức phật giáo

Bát Kỉnh Pháp của Tỳ kheo Ni trong Luật Tạng và Tứ Phần Luật

Phap Ngo Thich

Bát Kỉnh Pháp chính là một trong những điều kiện quan trọng để nữ giới được xuất gia trong Phật giáo. Trong bốn bộ Luật của Phật giáo, dù là Luật Tạng Pāli hay Tứ...

Bát Kỉnh Pháp chính là một trong những điều kiện quan trọng để nữ giới được xuất gia trong Phật giáo. Trong bốn bộ Luật của Phật giáo, dù là Luật Tạng Pāli hay Tứ Phần Luật, đều đề cập đến Bát Kỉnh Pháp. Đây được coi là điều kiện cần và đủ để nữ giới được tiến vào con đường giải thoát. Từ nguyên của "Bát Kỉnh Pháp" (八敬法) trong tiếng Pāli là Aṭṭha garudhammā, nghĩa là "tám pháp trọng yếu". Trong tiếng Hán, nó được dùng với nhiều từ khác nhau như bát kính giới (八敬戒), bát kính (八敬), bát trọng pháp (八重法), bát tôn trọng pháp (八尊重法), bát tôn sư pháp (八尊师法), bát bất khả quá pháp (八不可過法), bát bất khả việt pháp (八不可越法), bát bất khả vi pháp (八不可違法). Đây là tám nguyên tắc mà Tỳ kheo Ni phải tuân thủ và tôn trọng vị Tỳ kheo. Những nguyên tắc này có thể coi là những nguyên tắc giới đầu tiên mà Đức Thế Tôn đã đặt ra cho chư Ni. Xét sâu hơn, tám nguyên tắc này không khác các nguyên tắc giới đầu tiên mà Đức Thế Tôn đã quy định cho những người xuất gia nam giới.

BÁT KỈNH PHÁP LÀ TIỀN ĐỀ THÀNH LẬP NI ĐOÀN

Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, vai trò của phụ nữ là rất thấp. Tôn giáo và các giáo phái không đồng ý cho phụ nữ xuất gia. Vì vậy, trong gia đình và xã hội, phụ nữ không được công nhận đúng mức. Họ cũng không được tham gia vào các hoạt động cộng đồng và các nghi lễ tôn giáo như đàn ông. Đặc biệt, có quan điểm sai lầm cho rằng phụ nữ là nguồn gốc của tội lỗi và các ác nghiệp. Do đó, việc nữ giới xuất gia và gia nhập Tăng đoàn không chỉ bị chính xã hội và người Ấn Độ cản trở, mà còn bị các giáo phái khác chống đối.

Vì vậy, khi Di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề (摩訶波闍波提; Mahāpajāpatī) xin xuất gia, Đức Phật ban đầu không đồng ý cho phép nữ lưu sống đời tu tập trong giáo hội Tăng. Mãi khi Di mẫu cùng với những người phụ nữ khác tự cắt tóc, mặc trang phục giản dị và vượt qua một hành trình xa để đến tiếp cận Đức Phật, cầu xin Ngài cho nữ giới được xuất gia, cùng với lời thỉnh nguyện của Tôn giả A-nan (阿難; Ānanda), Đức Thế Tôn đã đưa ra tám quy tắc cho Di mẫu và các nữ lưu nói chung. Nếu họ đồng ý tuân thủ, họ sẽ được phép xuất gia và học Phật. Tám nguyên tắc này chính là tám nguyên tắc giới đầu tiên dành cho Ni giới, là điều kiện và nền tảng cơ bản để nữ giới tiến vào con đường giải thoát.

Hình ảnh minh họa: Bát Kỉnh Pháp - nguồn: chuadieuphap.com.vn

Trong Bát Kỉnh Pháp, có hai điều quan trọng đầu tiên. Các điều còn lại liên quan đến tổ chức của Tăng già và quan hệ giữa Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni. Tuy nhiên, tất cả các điều này đồng thời cũng là những yếu tố phụ trợ cho điều quan trọng đầu tiên. Nội dung của tám nguyên tắc này không chỉ là điều kiện cần thiết cho Ni giới, mà còn là những điều cần thiết cho bất kỳ ai theo đuổi con đường của Đức Phật.

Ngày nay, việc tuân thủ Bát Kỉnh Pháp của Tỳ kheo Ni không ảnh hưởng đến quyền lợi tổ chức trong giáo hội và sự tôn kính của Phật tử đối với Tỳ kheo Ni. Bát Kỉnh Pháp không chỉ giúp phụ nữ loại bỏ sự kiêu ngạo và tránh xa những ước muốn về nguồn gốc xã hội, mà còn là điều kiện cần và đủ để Ni giới thành lập và nữ giới được xuất gia. Vì thế, Ni giới luôn tôn trọng và coi Bát Kỉnh Pháp là điều quan trọng nhất.

Mọi bộ Luật đều đề cập đến Bát Kỉnh Pháp. Giữa Luật Tạng Pāli và Tứ Phần Luật, về nội dung tám nguyên tắc này, hai hệ thống giới luật có đôi chút tương đồng. Tuy nhiên, vẫn có vài điểm khác biệt trong quá trình xây dựng.

Về điểm tương đồng:

  • Cả hai hệ thống đều có tám nguyên tắc về kỉnh pháp.
  • Về địa điểm, Tứ Phần Luật đặt Đức Phật tại Ni-câu-luật viên ở Thích-sí-sấu, trong khi Luật Tạng Pāli đặt Thiện Thệ ở tu viện Nigrodha, thuộc dòng Sakya, thành Kapilavatthu.

Về điểm khác biệt:

  • Luật Tạng Pāli: Mahāpajāpatī Gotamī cùng với nhiều phụ nữ dòng Sakya đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và xin cho người nữ được xuất gia (số lượng không được nêu rõ). Đức Phật chấp thuận sau khi Mahāpajāpatī Gotamī cầu xin ba lần và sau khi người nữ xuất gia, Ngài nói rằng "trong Pháp và Luật, việc nữ giới xuất gia và sống không nhà không được tồn tại lâu dài".
  • Tứ Phần Luật: Mahāpajāpatī Gotamī cùng với năm trăm phụ nữ Xá-di đến cầu xin Đức Thế Tôn cho người nữ được xuất gia. Đức Phật chấp thuận sau khi Mahāpajāpatī Gotamī cầu xin một lần và trước khi người nữ xuất gia, Ngài nói rằng "nếu người nữ xuất gia và tu tập theo giáo pháp Phật, thì pháp Phật sẽ không tồn tại lâu dài".

Có sự khác biệt rõ rệt về số lần và thời điểm mà Đức Phật đồng ý cho người nữ xuất gia và lời nói về thọ mạng của Chánh pháp khi cho nữ lưu sống đời tu tập (TPL nói trước khi xuất gia, LTP nói sau khi xuất gia). Ngoài ra, thứ tự của tám nguyên tắc trong hai hệ thống giới luật cũng không giống nhau.

Với tám nguyên tắc này, Đức Phật đã chấp nhận nữ giới gia nhập Tăng đoàn. Di mẫu và phụ nữ dòng Thích Ca hân hoan tuân thủ tám nguyên tắc này. Từ đó, Ni đoàn được thành lập. Qua đó, Đức Thế Tôn đã nhận ra những nguy hiểm và những khuyết điểm không thể tránh trong việc điều hành song song Tăng đoàn và Ni đoàn cùng một lúc. Vì vậy, Ngài ban hành tám nguyên tắc này để bảo vệ và duy trì tương lai của cả hai giới luật. Tám nguyên tắc này được gọi là Bát Kỉnh Pháp - tám quy tắc tôn kính của Tỳ kheo Ni đối với Tỳ kheo.

Hình ảnh minh họa: Bát Kỉnh Pháp - nguồn: chuadieuphap.com.vn

Như vậy, có thể hiểu rằng, khi nhìn thấy mong ước mãnh liệt và thiêng liêng của nữ giới, Đức Phật một lần nữa sử dụng phương tiện khéo léo đặt ra Bát Kỉnh Pháp như một sợi dây để ràng buộc phụ nữ trong giới luật, điều này một chút nghiêm khắc hơn so với Tỳ kheo. Đây là một giải pháp khôn ngoan nhằm tránh sự chống đối của xã hội đối với Tăng già. Đồng thời, những lần từ chối của Đức Phật trước ý định xuất gia của người nữ chỉ là để thử thách ý chí của phụ nữ trong bối cảnh ấy, bởi việc tu tập trên con đường giải thoát đòi hỏi lòng dũng cảm, niềm tin và nghị lực vượt qua khó khăn. Những quy định trong Bát Kỉnh Pháp nhằm ngăn ngừa và tiêu diệt những suy nghĩ về giai cấp, sự phụ thuộc vào quyền lực và sự tự mãn của nữ giới trong dòng họ Thích-ca. Ngoài ra, tám nguyên tắc này cũng giúp Tỳ kheo Ni thuộc các tầng lớp thấp không cảm thấy tự ti và áp lực từ xã hội.

Chú thích:

  • Tỳ kheo Ni - Thạc sĩ. Thích Nữ Liên Liên.
  • [1] Viên Trí (2009), Ấn Độ Phật giáo sử luận, Nxb. Phương Đông, tr.133-134.
  • [2] Thích Giác Dũng (2004), Phật Việt Nam dân tộc Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, tr.34.
  • [3] Thích Hạnh Bình (2018), Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trường-a-hàm, kinh Tiểu Duyên, Nxb. Hồng Đức, tr.113.
  • [4] HT. Thích Đỗng Minh (2013), Luật Tứ phần (tập 3), Nxb. Phương Đông, tr.1767.
  • [5] Indacanda (dịch, 2007), Tiểu phẩm (tập 2), Nxb. Tôn giáo, tr.341.
  • [6] Tiểu phẩm (tập 2), tr.342.
  • [7] Tiểu phẩm (tập 2), tr.347.
  • [8] Chỉ những người con gái họ Thích.
  • [9] Luật Tứ phần (tập 3), tr.1767.
  • [10] Với nội dung học giới này, Đức Thế Tôn hướng đến phụ nữ muốn xuất gia và sống cuộc sống thanh tịnh thì phải học giáo pháp trong hai năm, có thể để làm quen với cuộc sống của Tỳ kheo ni trước khi thọ giới, cũng như xem xét xem người phụ nữ đó có mang thai trước khi xuất gia hay không. Cùng với nội dung này, trong điều giới dành cho người phụ nữ Thức-xoa-ma-na, đối tượng là người phụ nữ Thức-xoa-ma-na, chứ không áp dụng cho tất cả người phụ nữ như điều Bát Kỉnh Pháp thứ 4. Tuy nhiên, dù là đối tượng nào, nội dung quy định người phụ nữ phải học giáo pháp hai năm trước khi thọ giới Tỳ kheo Ni đã được Đức Thế Tôn nêu rõ khi cho phụ nữ xuất gia, không phải sau này có ni cô xuất gia mang thai rồi Ngài mới ban hành quy định.
  • [11] LTP: Tỳ kheo Ni không nên an cư ở nơi không có Tỳ kheo; TPL: Tỳ kheo Ni không được sống ở nơi không có Tỳ kheo. Xem Tiểu phẩm (tập 2), tr.344 và Luật Tứ phần (tập 3), tr.1771.

Tài liệu tham khảo:

  1. HT. Thích Đỗng Minh (2013), Luật Tứ phần (tập 3), Nxb. Phương Đông.
  2. Indacanda (dịch, 2007), Tiểu phẩm (tập 2), Nxb. Tôn giáo.
  3. Thích Hạnh Bình (2018), Những vấn đề cốt lõi trong kinh Trường-a-hàm, kinh Tiểu Duyên, Nxb. Hồng Đức.
  4. Viên Trí (2009), Ấn Độ Phật giáo sử luận, Nxb. Phương Đông.
  5. Thích Giác Dũng (2004), Phật Việt Nam dân tộc Việt Nam, Nxb. Tôn giáo.
1