Kiến thức phật giáo

Pháp Danh: Nguồn Gốc, Ý Nghĩa và Cách để Có Pháp Danh

Phap Ngo Thich

Bạn đã bao giờ nghe về khái niệm "pháp danh"? Trong Phật giáo Đại thừa của người Việt, pháp danh là tên mà vị Sư đặt cho người phát nguyện tu tập Phật pháp. Nó...

Bạn đã bao giờ nghe về khái niệm "pháp danh"? Trong Phật giáo Đại thừa của người Việt, pháp danh là tên mà vị Sư đặt cho người phát nguyện tu tập Phật pháp. Nó không chỉ đơn thuần là một cái tên, mà còn mang trong mình ý nghĩa và lòng tôn kính đối với giáo pháp Phật đào đạo.

Pháp Danh - Một Khái Niệm Quan Trọng

Trong Phật giáo Việt Nam, pháp danh thường bao gồm hai chữ. Chữ đầu tiên thể hiện thế hệ trong môn phái, dựa trên bài kệ của Tổ môn phái. Chữ thứ hai do Bổn Sư chọn dựa trên ý nghĩa của tên đệ tử để tạo thành một chữ kép ý nghĩa và đẹp. Chẳng hạn, nếu tên đệ tử là Mỹ và quy y với Bổn Sư, pháp danh có thể là "Nguyên Mãn" - "Nguyên" theo thứ tự thế hệ và "Mãn" theo tên Mỹ, mang ý nghĩa tu hành tốt đẹp.

Đôi khi, Bổn Sư cũng lựa chọn giữ nguyên chữ có sẵn trong tên đệ tử nếu nó mang ý nghĩa đạo và phù hợp. Hoặc có thể sử dụng chữ từ tên các vị A La Hán, Bồ Tát để tạo thành pháp danh. Các Bổn Sư trước đây thường sử dụng cuốn Kim Quang Minh Tam Tự để đặt pháp danh cho đệ tử.

Ảnh minh họa: Pháp danh trong Phật giáo

Nguồn Gốc Pháp Danh, Pháp Tự, Pháp Hiệu

Nguồn gốc pháp danh, pháp tự, pháp hiệu có rất nhiều câu chuyện thú vị. Khi Phật giáo lan rộng vào Trung Quốc, ngài Đạo An đã đề xuất sử dụng họ của Đức Phật - Thích-Sakya làm họ cho người xuất gia. Đồng thời, ông cũng thay đổi tên mình thành Thích Đạo An. Từ đó, người xuất gia thường mang dòng họ Thích.

Tại Việt Nam thời Lý-Trần, các thiền sư thường sử dụng pháp hiệu thay vì mang họ Thích. Các Thiền sư như Viên Chiếu (thế danh Mai Trực), Ni sư Diệu Nhân (thế danh Lý Ngọc Kiều) thường chọn đạo hiệu để tự diễn đạt.

Sau khi thọ Cụ túc giới, bổn sư sẽ được ban pháp hiệu. Trong một số trường hợp, pháp hiệu có thể do các vị y chỉ sư, giáo thọ sư, hoặc chư Tăng ban tặng. Hoặc người xuất gia có thể tự xưng và sau đó trình lên các bậc thầy để xác chứng.

Pháp hiệu sau này được sử dụng trong đời sống hàng ngày của chư Tăng Ni. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp mà một số Tăng Ni không sử dụng pháp hiệu. Việc sử dụng pháp danh, pháp hiệu, pháp tự là do quan điểm cá nhân của từng Tăng Ni hoặc theo tập quán của khu vực, vùng miền. Thường thì chư tôn đức Tăng Ni sẽ sử dụng pháp hiệu.

Ảnh minh họa: Nguồn gốc pháp danh trong Phật giáo

Ý Nghĩa Của Pháp Danh

Đầu tiên, chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của hai chữ "pháp danh". "Pháp" là giáo pháp của Phật, bao gồm kinh, luật, luận tục - tức là những lời dạy của Phật. Giáo pháp Phật có tác dụng xua tan màn vô minh, đưa con người và chúng sanh ai thoại học đều được thông suốt và có trí tuệ. Giác ngộ tu sửa thân tâm cải sửa thân khẩu ý, đi từ xấu đến tốt và cuối cùng thoát khỏi luân hồi.

Ở ngoại đời, cha mẹ sanh con và đặt cho con một tên gắn liền với dòng họ bên nội. Sau đó, làm khai sanh để có đủ họ và tên. Họ tên đó gắn liền với người con từ đời này sang đời khác cùng huyết thống. Tuy nhiên, "pháp danh" là tên đạo của bạn khi bạn đã quy y và tự diễn đạt theo giáo pháp Phật. Nó do Thầy Bổn sư đặt gọi là tên đạo và không ai có quyền thay Bổn sư đặt tên cho người Phật tử!

Với pháp danh, Phật tử có hai từ: một là từ thứ nhất lấy từ trong dòng kệ pháp, hai là dựa vào tên của phật tử mà đặt pháp danh. Ví dụ: Thầy Bổn sư là Nhuận Hải, theo dòng kệ của dòng Lâm Tế như trên, xuống một chữ là chữ "Từ". Nếu đệ tử có tên khai sanh là Tuấn, Thầy Bổn sư sẽ đặt pháp danh cho Phật tử là "Từ Tuấn"... Nếu đệ tử có tên khai sanh là Hưng, Bổn sư thế độ sẽ đặt cho đệ tử pháp danh là "Từ Thịnh"... có ghép trước pháp danh chữ Cư sĩ, Đạo hữu, Phật tử...

Ảnh minh họa: Ý nghĩa của pháp danh trong Phật giáo

Làm Sao Để Có Pháp Danh?

Đạo Phật là đạo giác ngộ, người xin quy y làm tín đồ của Đạo Phật thông qua giác ngộ và nhơn duyên. Gần đây, có nhiều người dân ở các xứ sở Hồi Giáo như Bangladesh đã quy y Phật, bỏ đạo Hồi và tu hành với Đạo Phật. Điều này có thể gây khó khăn cho Phật giáo, nhưng không thể không tiếp nhận khi mà người dân cần sự chia sẻ từ tín đồ Phật giáo để có được đất sống.

Tương tự, sau khi đất nước Ấn Độ độc lập, Thủ tướng Jawaharlal Nehru đã tuyên bố xây dựng đất nước dân chủ dựa trên chủ nghĩa từ bi bình đẳng của Đức Phật. Với ý tưởng sâu xa này, Thủ tướng Nehru đã thành công trong điều hành đất nước sau chiến tranh Anh-Ấn.

Như vậy, trong Đạo Phật, mọi việc đều phụ thuộc vào giác ngộ và nhơn duyên. Người muốn xin quy y cần gặp Thầy trụ trì và tham gia học giáo lý trong một khoảng thời gian nhất định. Sau đó, Thầy sẽ đặt pháp danh cho người đó. Ngày nay, tại Quan Âm Tu Viện và các chùa khác, số lượng người đến xin quy y và đặt pháp danh rất đông.

Khi đặt pháp danh, Thầy Bổn sư cần biết họ tên, tuổi của người xin quy y. Bên cạnh đó, còn phụ thuộc vào sự tín tâm và tác phong của người được đặt pháp danh. Nếu Thầy Bổn sư thuộc dòng thiền Lâm Tế, pháp danh sẽ xuất theo dòng kệ đặt pháp danh cho người xin quy y.

Cách đặt pháp danh đơn giản như sau: pháp danh gồm hai chữ - chữ đầu liên quan đến thế hệ trong môn phái theo bài kệ của Tổ môn phái và chữ sau do Bổn Sư chọn dựa trên ý nghĩa của tên người đệ tử (thế danh). Ví dụ: Nếu người có tên Mỹ quy y với Bổn Sư có pháp danh là TÂM, thì pháp danh sẽ là Nguyên Mãn - "Nguyên" và "Mãn".

Ảnh minh họa: Cách đặt pháp danh trong Phật giáo

Hy vọng rằng thông qua bài chia sẻ này, bạn đã hiểu rõ hơn về khái niệm pháp danh và cách chọn tên pháp danh ý nghĩa. Đừng quên tiếp tục theo dõi các bài viết thú vị và thông tin hữu ích khác tại trang web của chúng tôi để cập nhật kiến thức mới nhé!

1