Kiến thức phật giáo

Kinh Sám Hối Sáu Căn – Nghi Lễ và Ý Nghĩa

Phap Ngo Thich

Hình ảnh: Sám Hối Sáu Căn Sám Hối Sáu Căn Chí tâm sám hối: Chúng ta từ quá khứ đến hiện tại, Đã mất bản thân không biết con đường chánh đạo. Rơi vào ba...

Hình ảnh: sám hối Sáu Căn

Sám Hối Sáu Căn

Chí tâm sám hối:

Chúng ta từ quá khứ đến hiện tại, Đã mất bản thân không biết con đường chánh đạo. Rơi vào ba lối khổ, vì sáu căn lầm lỡ; Không sám hối lỗi trước khó tránh lỗi sau.

Nghiệp căn Mắt là:

Nhìn ác đo đếm, thiện xem khinh; Lầm lẫn hoa giả, quên ngắm trăng thật; Yêu ghét nổi dậy, tranh giành vẻ đẹp; Mắt mờ nhìn lệch, chẳng khác kẻ mù; Nhìn trộm người đẹp, liếc nhìn ngang, Lòa mắt chưa từng sanh, bản lai diện mục; Thấy ai giàu có, liếc mắt mãi nhìn, Gặp kẻ nghèo khó, lờ đi chẳng chú ý; Kẻ ngoan như chết chóc, nước mắt ráo khô, Thân thân quen qua đời, máu lệ đầm đìa; Hoặc đến chùa, hoặc đến đền, Gần tượng, nhìn mắt không chút quan tâm; Gặp Tăng, gặp chùa, gặp phái nữ, Liếc mắt, ham muốn sắc dục; Không ngại bị chúa tể, không sợ thần linh, Mắt tham vui, đầu chưa từng cúi; Những tội như thế, không đếm xuể, Tất cả đều từ mắt sanh, phải chịu địa ngục; Trải qua hàng ngàn kiếp, mới được làm người, Dù được làm người, lại bị mù chữ.

Nghiệp căn Tai là:

Ghét nghe chánh pháp, thích lắng nghe lời tà; Say đàn inh ỏi, khúc Long ngâm; Nghe vọng chuông vang quanh, coi như tiếng ếch hót; Nghe câu châm biếm, không chút quan tâm; Nghe khen chê ngắn gọn, khấp khởi mong cầu, Biết rõ lời tốt, đâu từng chấp nhận; Gặp một vài người uống rượu, một vài khách chơi, Trò chuyện ngắn gọn, thích đầu đầu; Gặp bạn giáo dưỡng, dạy bảo không suy tư, Những điều hiếu trung, không quan tâm; Hoặc nghe tiếng xuyến, dễ dàng nảy sinh dục, Nghe nửa câu kinh, liền ngay như tai ngựa; Những tội như thế, không đếm xuể, Đầy ắp trong thế gian, cứ thế mà tính. Sau khi chung mạng, rơi vào ba đường ác, Hết nghiệp thọ sanh, lại làm người điếc.

Nghiệp căn Mũi là:

Thường tham mùi lạ, trăm thứ khó chịu; Không thích hương tịnh, năm phần thanh tịnh; Nhanh chóng tiếp thu mùi hương, chỉ thích tìm tòi; Ràng buộc mùi hương, chưa từng cho mũi; Dụng cụ đốt đàn, đặt trước tượng Phật, Hít hơi thư giãn, trộm hương phảy khói; Theo dõi mùi thế gian, Long thần không quan tâm, Chỉ thích mùi xằng, cảm nhận không chán mỏi; Mặt đào, má hạnh, lôi kéo không rời; Cây giác hoa tâm, xây đi không chú ý; Hoặc đi ra chợ, hoặc vào nhà bếp, Thấy bẩn thèm ăn, thích nhớ không ngừng; Không ngại mùi tanh, không thích mùi tỏi, Mê mãi không thôi, như lợn nằm ổ; Hoặc chảy nước mũi, hoặc những tiếng hỉ đàm, Lau cột quẹt thềm, làm dơ đất sạch; Hoặc say ngủ trong điện Phật, Hai mũi thở hơi, xông kinh làm dơ bức tượng; Ngửi sen trộm, nghe mùi trở nên dâm, Không biết không tốt, tất cả do nghiệp mũi; Những tội như thế, không đếm xuể, Sau khi chung mạng, rơi vào ba đường khố; Trải qua hàng ngàn kiếp, mới được làm người, Dù được làm người, lại gặp bệnh mũi.

Nghiệp căn Lưỡi là:

Thích thử mọi thứ, thích so sánh đánh giá; Nếm hết mọi thứ, biết rõ béo gầy; Sát hại sinh vật, nuôi dưỡng chính mình, Chiên rán cá chim, nấu hầm động vật; Thịt tanh béo miệng, tỏi hành cháy ruột; Ăn rồi đòi thêm, không bao giờ no; Hoặc đến đàn chay, cầu nguyện Phật, Giữ bụng đói, chờ đến lúc công việc hoàn thành; Ậm chay sáng sớm, ít cơm nhiều nước, Giống hệt người đau, cố gắng nuốt thuốc cháo; Mặt đầy mỡ thịt, cười nói hân hoan, Chè cơm liền kiểu, nóng thay lạnh đổi; Tổ chức tiệc và tiếp khách, tổ chức đám cưới, Giết hại chúng sanh, vì ba tấc lưỡi; Nói dối, bịa đặt, làm thêm những điều sai, Hai lưỡi sinh ra, lặn mọi lời lẽ ác; Chửi mắng Tam bảo, nguyền rủa cha mẹ, Khinh rẻ Hiền thánh, lừa dối mọi người; Chê bai người khác, che đậy lỗi của mình, Trò chuyện về cổ kim, khen chê này nọ; Khoe khoang giàu có, xỉa xói người nghèo, Đuổi Tăng Ni, chửi mắng tôi tớ; Lời dối, độc dạng, nói khéo tiếng đàn, Vẽ những điều sai, nói không thấy có; Oán hờn nóng lạnh, phỉ nhổ non sông, Tranh cãi với Tăng phòng, ba hoa và điện Phật; Những tội như thế, không đếm xuể, Như cát bụi, không thể đếm hết; Sau khi mạng chung, vào ngục Bạt thiệt, Luyện sắt kéo dài, rót nước đồng mãi; Quả báo hết rồi, trải qua hàng ngàn kiếp mới sanh, Dù được sanh từ kiếp trước, lại bị câm bặt.

Nghiệp căn Thân là:

Tinh trùng cha, máu mẹ hòa thành hình, Năm tạng trăm xương, kết hợp với nhau; Cho rằng là thật, quên mất pháp thân, Sanh dâm, sanh sát, sanh trộm, thành ba nghiệp:

Nghiệp Sát Sanh là:

Luôn luôn gây tổn thương, không có tình người, Giết hại bốn loài, không biết một thể; Lầm hại khi cố giết, tự làm dạy người, Hoặc tìm thầy bùa, để thêm nỗi đau; Hoặc làm thuốc độc, để hại sinh linh, Chỉ gây hại cho người, không quan tâm đến vật; Hoặc đốt rừng núi, lấp khe suối, Buông chài và bủa lưới, thả chó và thú; Nghe tiếng tùy hỷ, liên tưởng đến làm, Cử động và hành động, đều là tội lỗi.

Nghiệp Trộm Cắp là:

Thấy của người, tham thì bắt đầu, Phá khóa, trộm túi; Thấy của người khác, lòng tham mở rộng, Trộm của chùa, không sợ Thần giận; Không chỉ vàng ngọc mới là tội lớn, Cả cây cỏ và loại cây kim đều trở thành nghiệp trộm.

Nghiệp Tà Dâm là:

Say đắm nhan sắc, mắt đắm phấn son, Chẳng quan tâm đến đức tính, chỉ yêu dục; Hoặc trong nơi thiền đường, chùa Tăng, Gặp sư cô gái, dính vào chuyện tình dục; Ném hoa, vắt chút, đánh đồng vai chát; Nói kinh câu kệ, không chú ý lắng nghe; Nghe khen ngợi, khấp khởi mong cầu, Biết lời tốt, chẳng bao giờ chấp nhận; Gặp vài người uống rượu, vài khách chơi, Trò chuyện ngắn gọn, say mê từ đầu; Hoặc gặp thầy bạn, dạy bảo không ngừng, Những điều hiếu trung, không quan tâm; Hoặc nghe tiếng xuyến, dễ dàng nảy sinh dục, Nghe nửa câu kinh, liền như tai ngựa; Những tội như thế, không đếm xuể, Đầy ắp trong thế gian, không đếm hết; Sau khi mạng chung, rơi vào ba đường ác, Hết nghiệp thọ sanh, lại làm người điếc.

Nghiệp căn Ý là:

Nghĩ vơ, nghĩ vẩn, suốt ngày không ngừng, Suy nghĩ xấu xa, ý thức tối tăm; Như tầm kéo kéo, càng kéo càng bền, Như bướm lao vào đèn, tự thiêu tự cháy; Không tỉnh táo, điên đảo, sinh ra dục, Tâm hỗn loạn, tâm thần không ổn định; Không hiểu biết về từ bi, không phân biệt thiện ác; Chặt cây hại mạng, giết gấu gãy tay; Chửi Phật, chọc giận Trời, Quên trí tuệ, chẳng tuân thủ pháp cấm; Bàn thiền với thánh, trước cảnh như ngu, Dù ở cửa Không, vẫn chưa phải là vô ngã; Như cây sanh lửa, lửa cháy đốt cây, Những tội lỗi trên đây, đều do nghiệp giận; Chửi mắng, nguyền rủa, xúc phạm cha mẹ, Khinh rẻ hiền thánh, lừa dối mọi người; Chê bai người khác, che giấu lỗi của mình, Bàn luận về cổ kim, khen chê này nọ; Khoe khoang giàu có, lăng trụng người nghèo, Đuổi Tăng Ni, chửi mắng tôi tớ; Lời dối, độc dạng, nói khéo tiếng đàn, Tô vẽ điều sai, nói không thấy có; Buồn giận nóng lạnh, mắng chê non sông, Tranh cãi với Tăng phòng, ba hoa điện Phật; Những tội như thế, không đếm xuể, Vẫn nằm trong địa ngục sau khi chung mạng; Trải qua hàng ngàn kiếp, mới được thọ sanh, Dù được thọ sanh, lại mắc ngu báo; Nếu không sám hối, không thể tiêu trừ, Hôm nay, trước tượng Phật, chúng tôi thành tâm sám hối.

Hình ảnh: CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN

Chí Tâm Phát Nguyện

Một nguyện nguồn linh thuần tục trong lặng lẽ. Hai nguyện giữ cho tâm thức sáng tỏ. Ba nguyện giải thoát khỏi mọi nghiệp định. Bốn nguyện trọn đầy sự tịnh lòng. Năm nguyện là giữ cho luật pháp không bị biến mất. Sáu nguyện là giải thoát khỏi tình ái. Bảy nguyện là suy nghĩ về Thập Địa. Tám nguyện là nghe suốt ba thiên. Chín nguyện giúp tâm rời bỏ những điều không hợp ý. Mười nguyện là ý ngựa không còn đau bóng gánh. Mười một nguyện là mở lòng nghe Phật dạy. Mười hai nguyện là kính trọng Tổ Sư Thiền.

Hình ảnh: CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG

Chí Tâm Hồi Hướng

Chúng tôi quay trở lại với Phật Tổ, Kính cẩn đầu cúi thờ Từ Tôn. Thềm thang Thập Địa nguyện sớm thức dậy, Tâm Bồ Đề không thay đổi.

Phục Nguyện

(Chủ lễ đọc) Cửa Thiền luôn trang nghiêm và thanh tịnh, Toàn bộ chúng tôi hòa thuận; Phật tuệ chiếu sáng rực rỡ, Mưa pháp luôn ngấm vào cõi tâm hồn. Tâm niệm Phật sâu sắc, Ruộng phước càng lớn thêm. Chúng sinh sống an lành, Hưởng niềm vui của thế giới bình yên. Khắp mọi nơi không còn chiến tranh, Mọi người cùng trở thành Phật. Nam mô phật bổn sư thích ca mâu ni .

(Đại chúng đồng đứng lên lễ Phật) Chí tâm quy mạng lễ, vô thượng các Tam Bảo. (3 lạy)

Kết Luận

Theo đạo Phật, sám hối là cách thể hiện sự hối lỗi, từ đó tạo ra chánh kiến. Từ "Sám" trong tiếng Phạn có nghĩa là "đau khổ", được gọi là "quả sám hối" trong tiếng Trung Quốc. Câu "Sám hối thì đã muộn, nhưng hối hận thì đã quá muộn" đã thể hiện ý nghĩa của việc sám hối. Ý nghĩa của sám hối là xóa bỏ lỗi lầm đã qua, và cũng từ đó tránh khỏi việc mắc phải lỗi lầm trong tương lai.

Theo lời dạy của Đức Phật, mỗi người trong cuộc sống đều mắc ít nhiều sai lầm. Nếu ta không rèn luyện và trau dồi, những sai lầm đó có thể gây đau khổ cho người khác. Vì không khéo léo trong hành động và lời nói, tôi đã gây đau khổ cho bạn bè, người thân và những người tôi yêu thương. Vì vậy, khi nhìn lại điều đó, chúng ta muốn có sự bình yên trong tâm hồn. Nếu chúng ta muốn thoát khỏi lỗi lầm của mình, chúng ta phải tìm cách tránh xa mọi tội lỗi của mình. Trong Phật giáo, phương pháp diệt trừ này được gọi là sám hối.

Hy vọng những người đọc trong gia đình đã nhận được những thông tin hữu ích về Sám Hối Sáu Căn và được hỗ trợ trong con đường tu tập.

1