Khăn vấn (Chữ Nôm: 䘜𦄞), khăn đóng (Chữ Nôm: 䘜凍) hoặc khăn xếp (Chữ Nôm: 䘜插), là một loại khăn trùm đầu được người Việt đội từ thời triều Nguyễn và đã trở nên phổ biến. Từ "vấn" có nghĩa là "quấn xung quanh". Từ "khăn" có nghĩa là vải, khăn hoặc khăn quàng.
Lịch sử
Sau cuộc chiến Trịnh-Nguyễn, người dân ở Quảng Nam (Cửa Lò - vùng phía Nam) bắt đầu thích nghi với một số phong tục của Chăm Pa, trong đó có việc "vấn khăn" - quấn khăn quanh đầu.
Người chúa Nguyễn đã giới thiệu áo dài cổ xưa (áo ngũ thân). Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát của Đàng Trong (Huế) ban lệnh cả nam và nữ trong triều phải mặc quần áo với cúc áo phía trước. Thành viên trong triều Đàng Trong (triều phía Nam) có phong cách khác biệt so với các quan Triều Tiên ở Đàng Ngoài (Hà Nội), những người mặc áo giao lĩnh có váy và tóc dài. Do đó, việc quấn khăn quanh đầu trở thành một phong tục đặc biệt ở miền Nam. Từ năm 1830, vua Minh Mạng ra truyền lệnh mọi dân sự trong cả nước đổi quần áo và phong tục này trở nên phổ biến ở khắp Việt Nam.
Đặc điểm
Khăn vấn là một miếng vải hình chữ nhật dài và khá dày, quấn quanh đầu. Theo lệ của triều Nguyễn ghi trong "Đại Nam Sử Lược", người Việt ban đầu vẫn trung thành với phong cách Chăm Pa, nhưng dần dần cải tiến phù hợp với từng giai đoạn và mỗi tầng lớp xã hội.
Ngoài ra, theo luật triều Nguyễn, việc quấn khăn quá ngắn và mỏng bị cấm, nhưng quá dài và dày cũng bị chỉ trích là xấu.
Loại khăn vấn
Khăn vấn nam
Khăn vấn cho nam giới, thuận tiện và tự nhiên. Sử dụng vải dày hoặc mỏng (tùy theo ý muốn để cố định búi tóc) và quấn một hoặc hai lần quanh đầu để vừa vặn gọn, trừ màu vàng (dành cho hoàng đế).
Có hai kiểu phổ biến nhất để đội khăn vấn cho nam giới: kiểu chữ nhân (hình như 人) và kiểu chữ nhất (hình như 一).
- Kiểu chữ nhân: những nếp gấp trên trán giống như chữ "nhân" (hình dạng giống người).
- Kiểu chữ nhất: những nếp gấp trên trán giống như chữ "nhất" (hình dạng giống một).
Khăn vấn nữ
Khăn vấn cho phụ nữ và con gái, còn được gọi là rí hoặc khăn lương. Thuận tiện và tự nhiên. Một miếng vải không quá dài, có tóc giả bên trong, được quấn quanh đầu để giữ gọn tóc. Phụ nữ trẻ khi đi dự lễ cũng thích đeo bím tóc để thêm sức quyến rũ. Trừ màu vàng (dành cho thành viên hoàng gia) và màu hồng (dành cho ca sĩ và gái mại dâm), các màu khác đều phổ biến.
Cách đội khăn vành ở Huế khác với cách đội khăn vấn của miền Bắc Việt Nam. Ở Huế, khăn vành được đội với phần mép hướng lên trong vòng. Vòng thứ hai được đặt ở bên ngoài vòng đầu đối với vòng thứ nhất, chứ không phải ở dưới vòng như ở miền Bắc.
Khăn vành dây (dành cho nữ trong các dịp trang trọng)
Một phiên bản khăn vấn dành cho phụ nữ trong các dịp trang trọng gọi là khăn vành dây, khăn vành hoặc mũ mấn. Miếng vải dài, dày được quấn quanh đầu giống như một chiếc phễu.
Khăn vành dây truyền thống được ghi nhận với màu xanh dương. Chỉ trong những dịp quan trọng nhất, ta mới nhìn thấy khăn vành dây màu vàng ở phần bên trong Kinh thành Huế. Ngoài ra, từ đệ nhị hoàng hậu, hoàng hậu và công chúa cũng chỉ mặc mũ mấn xanh dương.
Trong ngày xửa ngày xưa, ở bên trong Kinh thành Huế, phấn nụ và khăn vành luôn đi kèm nhau. Họ sử dụng vải nhiễu cát hoặc vải crêpe de Chine vào giai đoạn sau cho mái tóc của mình. Vải nhiễu cát, được dệt bởi người Nhật trong quá khứ, chỉ mỏng gấp đôi so với vải crêpe de Chine, được sử dụng trong Kinh thành vào cuối triều Nguyễn. Các bà trong cung Huế thường đội khăn vành dây trong lễ nghi. Một chiếc khăn vành dây làm bằng vải crêpe de Chine nhập khẩu có chiều rộng 30 cm và chiều dài trung bình 13 m. Một chiếc khăn vành dây làm bằng vải nhiễu cát Việt Nam gần như gấp đôi chiều dài.
Từ chiều rộng ban đầu của 30 cm, khăn vành dây được gấp thành chiều rộng 6 cm với cạnh mở hướng lên. Sau đó, nó được quấn quanh đầu theo hình dạng chữ nhân, có nghĩa là những nếp gấp trên trán giống như chữ "nhân" (hình dạng giống người), che tóc đến vai và gấp khăn vào bên trong. Một nửa chiều rộng của khăn được gấp, bắt đầu từ gáy, để cạnh mở hướng lên trước khi tiếp tục quấn. Khăn vành được quấn chặt quanh đầu và tạo thành hình dạng đĩa lớn. Với vải nhiễu cát, vải có độ đàn hồi và sần cao, khăn vành hiếm khi trượt. Đầu khăn cẩn thận được gài vào phần sau của khăn, nhưng đôi khi cần sử dụng ghim tiện lợi.
Biến thể
Ở miền Tây Nam Bộ, có một biến thể phổ biến gọi là khăn rằn, kết hợp giữa khăn vấn truyền thống của người Việt với Krama của người Khơ-me. Nhưng khác với màu đỏ của người Khơ-me, khăn vấn của người Việt là màu đen và trắng. Khăn vấn thường có kích thước khoảng 1m x 40-50 cm. Vì chỉ phổ biến ở miền Nam, nên nó được coi là đặc trưng của nơi này.
Vào thế kỷ 21, xuất hiện nhiều loại khăn vấn giả, như mũ mấn được làm bằng gỗ, nhựa và kim loại. Tuy nhiên, những sản phẩm này thường bị chỉ trích trong báo chí là thô lỗ và thậm chí kinh tởm. Do đó, mong muốn sở hữu một chiếc khăn vấn gọn gàng và đẹp được coi là một xu hướng chung trong việc đánh giá chất lượng của mỗi người.