Đời người và pháp Phật
Tục sanh để trở thành con người là điều khó khăn, gặp nguyên tử Phật pháp là hơn cả khó khăn và hiểu, áp dụng Phật pháp vào cuộc sống tu hành để đạt kết quả tốt đẹp thì càng khó hơn nữa.
Trên toàn thế giới có hơn sáu tỷ người, nhưng chưa đến 10% người đã gặp được Phật pháp. Trong số 10% người đã gặp Phật pháp, không phải ai cũng tin. Gặp được và tin Phật pháp là do nhân duyên từ các đời trước, nên chỉ có người đó mới tin Phật.
Hành trình tu hành
Khi còn nhỏ, tôi nhìn thấy có người qua đời bên cạnh nhà. Từ đó, tôi đã có suy nghĩ về sự sanh và chết, thấy uổng một kiếp người. Một ngày nọ, tôi đọc báo Từ Bi Âm và từ đó, tôi nghĩ về Phật, tin Phật và đi tìm đạo.
Tìm thầy dìu dắt tu hành và học đạo đã khó, nhưng riêng tôi, nhờ căn lành từ đời trước, tự nhiên tôi nghĩ đến Phật và tin Phật. Tuy nhiên, tin Phật và lạy Phật, ai cũng làm, nhưng đạt được kết quả không nhiều.
Người có căn lành và niềm tin ở Phật, siêng năng lạy Phật, tụng kinh , cũng tìm được sự an lành trong lòng, nhưng gặp thầy khai ngộ thì khó nữa. Vì vậy, học kinh, tụng kinh có phước, nhưng áp dụng được trong cuộc sống thì khó hơn.
Tôi may mắn có duyên với kinh Pháp hoa, từ khi 12 tuổi, tôi đã được gặp Hòa thượng Đạt Vương và được tặng bộ kinh Pháp hoa bằng chữ Nho. Tuy không đọc được, nhưng nhờ căn lành làm tôi tin tưởng đây là vật quý giá.
Đầu tiên, tôi tới tổ đình Giác Lâm và Giác Viên để gặp Hòa thượng Viện chủ và Hòa thượng Giáo thọ, đó là hai ngôi chùa có tụng kinh Pháp hoa chữ Hán. Thấy tôi ôm bộ kinh Pháp hoa, Hòa thượng nói rằng tôi có duyên với kinh này. Nếu có duyên với kinh Pháp hoa, tự nhiên sẽ quý trọng kinh và tin tưởng kinh.
Thời gian đó, tôi gặp một vị sư không biết tên, gọi là thầy Huế. Ông nói tôi nên đến chùa Phước Tường gặp Hòa thượng Bửu Ngọc. Và từ đó, tôi đã có cảm giác Phật đã khiến thầy Huế đến chỉ đường cho tôi đi học đạo trong sự bình yên và thăng hoa.
Có niềm tin vững, được Phật hộ niệm, mình và Phật có sự gắn bó vô hình không thể nói được. Chính vì vậy, chỉ có người tu hành thật sự mới hiểu được ý này.
Tinh thần và tâm hồn thanh tịnh
Thông qua tu hành, người có tâm thành tịnh sẽ đạt được sự gắn bó với Phật. Kinh Pháp hoa yêu cầu hiểu nghĩa lý trong kinh. Riêng tôi, hiểu được nghĩa lý kinh Pháp hoa và tu học tại chùa Ấn Quang, gặp cố Hòa thượng Trí Hữu, một người có niềm tin sâu sắc với kinh. Mỗi ngày, Hòa thượng tụng một bộ kinh Pháp hoa xong, thì đốt một liều hương trên đầu để cúng dường Phật. Qua hành động này, ngài thể hiện niềm tin mạnh mẽ trong cuộc đời tu hành.
Tu hành Pháp hoa đòi hỏi giữ tâm thanh tịnh và hiểu ý nghĩa kinh. Khi tụng kinh, tâm không đói, không khát nước, không bị ảnh hưởng bởi điều kiện ngoại vi. Thậm chí, nhiều người tu hành không cần ăn uống, không cảm giác đói khát, nóng lạnh. Điều này cho thấy sự thâm nhập vào pháp Phật, khiến cho người tu hành không bị thiên hạ và hoàn cảnh môi trường chi phối.
Người tu hành theo nguyên thủy đạt đến được sự gắn bó này, gọi là Dự lưu. Tu hành Pháp hoa cũng giống như vậy, sống ngoài khen chê, không ăn ngủ cũng không sao. Khi làm việc với người, tu hành Pháp hoa cũng không bị ảnh hưởng bởi cảm xúc tích cực hay tiêu cực.
Hành động và tâm thanh tịnh
Tu hành Pháp hoa có kết quả vì nhận thức được ý nghĩa kinh, tu tụng kinh, không cần nước uống, nhưng có cảm giác có nước ngọt trong cổ và âm thanh còn tốt hơn. Ngược lại, người chỉ tụng kinh và uống nước, hoặc tụng kinh trong lúc đói, không đạt được sự an lành.
Khi tụng kinh, dù trời nóng 40 độ, nhưng không cảm giác nóng. Điều này chứng tỏ đã vào cửa đạo. Người tu ngồi yên trong chánh niệm, không bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ môi trường. Tôi gặp nhà sư Ấn Độ ở Ý, trong mùa đông, ông chỉ mặc một áo, khiến tôi ngưỡng mộ.
Người thâm nhập đạo, nhập lưu vào dòng thác trí tuệ, tránh bị ảnh hưởng bởi xã hội và thiên nhiên, là xuất thế. Phân biệt đúng sai, suy nghĩ đúng và làm việc có lợi ích cho người là những đức tính quan trọng của người tu hành.
Tôi đã phát hiện rằng, khi tâm thanh tịnh, lòng yêu người mà tôi nói những lời dễ thương. Khi không có yêu người, lời nói của tôi cũng không tốt. Phát xuất từ tâm thanh tịnh, khi tôi thấy một người nói chuyện hay rầy la, tôi vẫn cảm thấy tốt. Điển hình là Phật, lời giáo huấn của Ngài toát ra tình từ bi vô lượng, chỉ muốn cứu độ mọi người. Vì thế, đại chúng cảm động và thành tâm tiếp nhận lời Phật dạy.
Hành đạo và nhân duyên
Tu hành Pháp hoa, đầu tiên phải giữ ba nghiệp thanh tịnh. Ba nghiệp gồm nghiệp thân, khẩu và ý. Trong ba nghiệp này, quan trọng nhất là ý chỉ đạo hành động. Khi tâm thanh tịnh, lời nói của mình mới trở nên dễ thương.
Phát xuất từ tâm thanh tịnh, người tu hành nói và hành động tốt. Hành động của họ có tác động tích cực lên người khác. Điều này thể hiện lòng từ bi và lòng quý trọng mọi người. Riêng tôi, khi hướng tâm mình đến Phật pháp, tôi nhận thấy ngày đó tâm còn trong sạch. Tụng kinh là lấy pháp rửa sạch lòng trần, mình trở nên thanh tịnh hơn và lời nói của mình cũng trong sạch hơn.
Đi theo hành đạo của các Bồ-tát Dược Vương, Diệu Âm và Quan Âm giúp chúng ta có sự yên ổn trong cuộc sống. Càng tiến xa, theo Bồ-tát Phổ Hiền, chúng ta không thể giống Như Lai, nhưng có thể học tập các phẩm hạnh của Ngài.
Tóm lại, tu hành, đọc kinh và học theo Bồ-tát là để từng bước chúng ta trở nên giống như các Bồ-tát. Các Bồ-tát hỗ trợ chúng ta và chúng ta thay thế các Bồ-tát. Các Bồ-tát không có thân tứ đại, nên họ không thể làm được nhưng họ hợp tác để chúng ta làm.
Theo kinh nghiệm của tôi, thành tựu việc khó là nhờ được hộ niệm của các Bồ-tát. Cầu Phật hộ niệm cho mọi người được an lành trên bước đường tu.
Hòa thượng Thích Trí Quảng