Kiến thức phật giáo

Nguồn Gốc Ấn Tam Bảo – Ấn Chương – Ấn Tự: Tìm Hiểu Về Phụ Kiện Quan Trọng Trong Phật Giáo

Phap Ngo Thich

Ảnh minh họa: Nguồn Gốc Ấn Tam Bảo - Ấn Chương - Ấn Tự Trong tôn giáo Phật giáo, ấn được coi là một phụ kiện quan trọng. Nhưng bạn có biết về nguồn gốc...

Ảnh minh họa: Nguồn Gốc Ấn Tam Bảo - Ấn Chương - Ấn Tự

Trong tôn giáo Phật giáo, ấn được coi là một phụ kiện quan trọng. Nhưng bạn có biết về nguồn gốc và ý nghĩa của ấn Tam Bảo, ấn Chương và ấn Tự không? Hãy cùng tìm hiểu về những ấn này trong bài viết sau đây.

Ấn Tam Bảo

  • Trong tự viện Phật giáo, cụm từ "Phật Pháp Tăng Bảo" thường được khắc trên ấn, và đây được gọi là ấn Tam Bảo. Kiểu chữ được sử dụng có thể là Lệ thư, Triện thư, Hành thư, chữ Phạn hoặc chữ Việt. Ấn có hình vuông, tròn, quả ấu hoặc dấu vuông, và được làm từ sừng, gỗ, đá, đồng, hoặc ngọc.

Ấn Tam Bảo thường được sử dụng trong các hoạt động như kỳ phước, lễ hội, độ vong và khánh tiết trong các tự viện Phật giáo. Đặc biệt, trong công văn và sớ điệp, ấn Tam Bảo được sử dụng nhằm chứng minh công đức và đảm bảo thành tựu như ý.

Ấn Chương

  • Ấn Chương còn được gọi là ấn tín, ấn kiện, ấn giám và trong lễ tắc của nhà Chu có tên là "Nhĩ tiết". Việc khắc biểu ngữ, quy cách, hình dạng, kiểu chữ và quy tắc khắc ấn đã được nêu rõ trong sách "Sắc Xuyết Canh Lục" của Đào Tông Nghi từ thời nhà Minh.

Ở thế tục, việc sử dụng ấn là rất phổ biến và quan trọng, không chỉ trong quân trường, thương trường, trường học, xã đoàn mà còn trong đời tư. Ấn có nhiều tác dụng khác nhau để chứng minh, tín dụng, trách nhiệm và pháp luật.

Trong Phật giáo, từ các tự viện đến trong đại chúng, khi vẽ tượng Phật, viết thư Pháp, in kinh và pháp khí, việc sử dụng ấn là thiết yếu để dễ dàng quản lý và phân biệt.

Ấn Tự Viện

  • Ấn Tự Viện, còn được gọi là "Tự ấn", là khuôn dấu được sử dụng trong chùa viện. Có nguồn gốc từ thời Phật còn trên thế. Theo sách Tiếp Nại Đa Tạp Sự, lúc đó có kẻ giặc đến trộm cắp tài vật trong kho của Tăng và những vật dụng cá nhân. Vì không có ghi tên, Tỳ kheo đã không biết mất cái gì. Do đó, Phật dạy Tỳ kheo nên cất giữ ấn và sử dụng 5 loại vật để làm ấn, bao gồm đá, đồng đỏ, đồng trắng, ngà và sừng.

Theo Tiếp Nại Đa Tạp Sự, ấn được chia thành hai loại:

  1. Ấn đại chúng.
  2. Ấn cá nhân.

Nếu là ấn đại chúng, biểu tượng chuyển pháp luân sẽ được khắc trên ấn, đôi bên là hai con nai qui hầu và dưới đó là tên người đóng góp xây dựng chùa. Đây cũng tương tự như ấn Tam Bảo mà các chùa hiện nay đang sử dụng. Còn ấn cá nhân, hình khúc xương hoặc hình sọ người thường được khắc để tránh nhàm chán.

Những chứng cứ trên cho thấy từ thời Phật còn trên thế, trong Tăng đã sử dụng ấn. Tuy nhiên, việc sử dụng ấn trong các chùa viện không có chứng cứ rõ ràng từ thời nhà Hán Ngụy trở đi.

Theo sách Phật Tổ Thống Kỷ, vào năm 1175, thời Nam Tống, vua Hiến tông ra lệnh xây dựng đạo tràng Kim Quang Minh Hộ Quốc ở chùa Thiên Trúc Thượng và cũng ra lệnh sử dụng một con dấu Bạch Vân Đường. Theo sách Phật Tổ Thống Tải, vua Hiếu tông cũng ban dấu Trực Chỉ Đường cho chùa Linh Ẩn.

Hình dạng và chất liệu của ấn không nhất định. Ở Việt Nam, trước đây, ấn trong chùa và chiền thường có hình vuông, nhưng hiện nay, theo qui định của Nhà nước và Giáo hội, ấn của tự viện phải có hình tròn. Qui chế sử dụng khuôn dấu cũng được ghi rõ, bao gồm chức năng, quyền hạn và phương thức sử dụng. Các người sử dụng cần hiểu rõ và đảm bảo tuân thủ qui cách.

Từ nguồn gốc và sự phát triển thay đổi của khuôn dấu tự viện, chúng ta có thể thấy sự quan trọng của ấn trong Phật giáo. Hãy trân trọng và tìm hiểu thêm về những bí mật và ý nghĩa của những phụ kiện này.

1