Hiểu thế, tuy không phải là sai hẳn, nhưng thực ra thì chưa đúng ý nghĩa của hai chữ công quả. Vậy công quả nghĩa là gì?
Công: chữ Hán có nghĩa là thợ
Công là người bỏ công sức ra chuyên làm một ngành nghề nào đó, thì gọi đó là công. Có hai loại công: công nhân và công phu. Công nhân là người dùng sức lao động để làm một công việc nặng nhọc, bằng chân tay hoặc trí óc. Còn công phu là người vận dụng năng lực để làm công việc, mang tính tinh thần siêu thoát hơn. Ví dụ như công phu tham thiền, công phu lễ bái, niệm Phật,...
Còn chữ "quả" cũng là chữ Hán, nghĩa đen là trái. Nghĩa bóng là thành quả hay kết quả của một việc làm hay lời nói.
Tiền kiếp dốc sức siêng năng công quả, hiện tại thành đại gia tiền vàng dư dả.
Như vậy, hai chữ công quả có nghĩa là khi chúng ta dùng sức làm một công việc nào đó, tùy theo chỗ dụng công tốt hay xấu mà nó sẽ đưa đến cái kết quả khác nhau. Nói gọn cho dễ hiểu, công là nhân mà quả là kết quả.
Hiểu như thế, thì không chỉ khi đến chùa làm việc mới gọi là làm công quả, mà còn làm những việc khác như tụng kinh, lạy Phật, niệm Phật, dịch kinh ở nhà... đều có thể gọi là công quả. Chúng ta có thể áp dụng hai chữ này vào bất cứ công việc nào và ở đâu.
Điều quan trọng mà người Phật tử cần nhớ là khi làm bất cứ việc gì và ở đâu, chúng ta cần cẩn thận ở nơi ba nghiệp: thân, miệng, ý. Nếu chúng ta làm với tâm loạn tưởng, si mê, sân hận nóng nảy... thì kết quả không những không có phước đức mà còn mang thêm trọng tội.
Cái nhân (công) không tốt, thì thử hỏi cái quả làm sao tốt đẹp cho được? Cho nên, khi bỏ công sức ra làm bất cứ điều gì, ta phải cẩn trọng khéo gìn giữ ở nơi ba nghiệp: thân, miệng, ý cho được nghiêm túc trong sạch. Nhất là ý nghiệp.
Nếu chúng ta không khéo gìn giữ trong khi hành động hoặc nói năng, thì kết quả có khi sẽ trái ngược lại. Như một người ra sức trồng cây mà không quan tâm chăm sóc kỹ lưỡng, thì kết quả, cái cây kia sẽ không thể nào đơm hoa kết trái tốt đẹp như ý muốn được.