Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện thuộc tập T13, kinh số 412 trong Bộ Đại Tập do Đường Thật Xoa Nan Đà dịch, bản Việt dịch được thực hiện bởi HT Thích Trí Tịnh. Kinh này với những giáo điểm của nó đã trở thành một nguồn cảm hứng quý giá trong giáo pháp Tâm Bồ Đề.
Đạo Hiếu và Ý Nghĩa Của Nó
Theo tông chỉ của Kinh Địa Tạng, có tám chữ "Hiếu đạo, Ðộ sanh, Bạt khổ, Báo ân." Những chữ này nói lên điều gì? Chúng thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ. Việc biết hiếu thảo với cha mẹ sẽ mang lại sự phồn thịnh cho trời đất. Hiếu thảo với cha mẹ không chỉ làm cho trời đất cảm động, mà còn làm con người chúng ta thăng hoa. "Thiên địa trọng hiếu, hiếu đương tiên." Chữ Hiếu này thực sự quan trọng. Chỉ cần một chữ "Hiếu" thì gia đình chúng ta sẽ được bình an. "Hiếu thuận hoàn sanh hiếu thuận tử." Nếu chúng ta hiếu thảo với cha mẹ, con cái chúng ta sẽ hiếu thảo với chúng ta; và ngược lại, nếu chúng ta không hiếu thảo, con cái chúng ta cũng sẽ không hiếu thảo với chúng ta. Vì vậy, việc học cách làm người và ý nghĩa của nó là gì không thể phủ nhận. Không chỉ là một ý niệm mơ hồ, việc làm người có nguồn gốc từ việc biết bổn phận hiếu thảo với cha mẹ. Cha mẹ chính là trời đất, chính là những người trưởng thành, và cũng là chư Phật. Nếu không có cha mẹ, chúng ta sẽ không có thân thể này và không thể trở thành Phật. Vì vậy, nếu muốn trở thành Phật, chúng ta phải trước tiên hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu Ðạo chính là điều quan trọng nhất.
Ðộ Sinh: Độ Chúng Sinh Muôn Đời
Tông chỉ thứ hai của Kinh Địa Tạng là "Ðộ sinh." Tại sao nó được gọi là Ðộ sinh? "Ðộ" có nghĩa là chuyển từ bên này sang bên kia; từ sinh tử tới Niết Bàn, từ phiền não tới thành Bồ Đề, đều được gọi là "độ." Nói độ sinh chính là độ chúng sinh. Ðộ chúng sinh không chỉ đề cập đến việc độ một người hay hai người, mà độ chúng sinh ám chỉ độ tất cả mười hai loài chúng sinh, để giáo hóa và làm cho họ tâm đều phát tâm thành Bồ Đề, trở thành Phật. Ðây mới gọi là độ chúng sinh.
Bạt Khổ: Trừ Bỏ Khổ Nạn
Thứ ba là "Bạt khổ", và Kinh này đã được ban cho để chúng ta trừ bỏ khổ nạn của chúng sinh.
Báo Ân: Trả ơn Cha Mẹ
"Hiếu đạo, Bạt khổ, Ðộ sinh, Báo ân" là tông chỉ của Kinh Địa Tạng. Mặc dù có rất nhiều điều để giảng thích, tôi muốn chỉ tập trung vào những điều quan trọng nhất. Điều mà chúng ta hiểu rõ hơn sau này.
Hiếu Thảo và Sự Hiếu Thảo Chân Chính
Nhắc đến hiếu thảo, có người nghe đã nghĩ: "Tôi phải về nhà thể hiện sự hiếu thảo với cha mẹ." Nhưng khi đến nhà và gặp cha mẹ, chúng ta thường quên đi việc hiếu thảo. Tại sao lại quên? Đó là do chúng ta không biết chính xác điều gì là lòng hiếu thảo. Để thể hiện lòng hiếu thảo đúng đắn, chúng ta cần học pháp của Phật. Việc học Phật pháp là cách thể hiện sự hiếu thảo với cha mẹ. Không cần phải đối mặt với cha mẹ để thể hiện sự hiếu thảo, rồi khi quay lại lại quên đi sự hiếu thảo. Học Phật pháp ở đây cũng đồng nghĩa với việc thể hiện sự hiếu thảo với cha mẹ. Việc chúng ta ở đây học Phật pháp, trở thành người tốt trên thế giới, có lợi cho cả thế giới. Có lợi cho thế giới chính là sự hiếu thảo với cha mẹ.
Hiếu có bốn loại: Tiểu hiếu, Đại hiếu, Viễn hiếu, Cận hiếu. Tiểu hiếu là hiếu với gia đình, tức là hiếu với cha mẹ ở nhà, chứ chưa hiếu với tất cả mọi người và chưa thể trở thành người hiếu quảng đại. "Hiếu quảng đại" là gì? Hiếu quảng đại chính là Đại hiếu, tức là hiếu với tất cả mọi người, xem tất cả cha mẹ trên thế gian như cha mẹ của mình. Đây mới gọi là hiếu với tất cả mọi người. Tuy nhiên, hiếu với tất cả mọi người này cũng chưa đạt đến hiếu thảo chân chánh. "Hiếu thảo chân chánh" là gì? Chân hiếu chính là khi chúng ta trở thành Phật. Lòng hiếu này vượt qua cả bốn loại hiếu kia, nó là một loại hiếu chân chánh. Vì vậy, chỉ khi chúng ta trở thành Phật mới thực sự gọi là Chân hiếu. Điều này vượt trên mọi khía cạnh. Vậy hiếu thảo là gì? Cận hiếu là con người ở thời đại này hiếu thảo với cha mẹ. Đi học cũng là một phương pháp hiếu thảo với cha mẹ. "Viễn hiếu" ám chỉ đến hiếu thảo suốt muôn đời. Cận hiếu có thể coi là tiểu hiếu, nhưng cũng có một vài điểm khác biệt. Viễn hiếu là hiếu thảo suốt muôn đời, như trong truyền thuyết có 24 người hiếu. 24 người hiếu này là những người hiếu thảo trong suốt muôn đời, để lại tiếng thơm cho muôn đời.
Nhị thập tứ hiếu này có một người ở Trung Quốc được gọi là Ðổng Vĩnh. Ðổng Vĩnh được biết đến là một người rất hiếu thảo với cha mẹ. Người hàng xóm của anh ta là Vương Kỳ, một người giàu có. Mẹ của Ðổng Vĩnh, nhờ có người con hiếu thảo, luôn khỏe mạnh và vui vẻ dù đã lớn tuổi. Trái ngược lại, mẹ của Vương Kỳ, dù giàu có và được ăn những thức ăn ngon, lại luôn yếu đuối và ốm yếu. Bà không cảm thấy vui vẻ và luôn đau buồn. Trong một lần không có Ðổng Vĩnh ở nhà, Vương Kỳ hỏi mẹ anh ta (người mập) vì sao bà lại mập phết khi nhà bà nghèo như thế. Mẹ của Ðổng Vĩnh trả lời rằng: "Vì con của tôi rất hiếu thảo, con không làm điều xấu, luôn thật thà và làm việc chăm chỉ. Tôi không lo lắng về con, và tôi rất hài lòng. Tôi cảm thấy thân thể khỏe mạnh và tôi thích điều đó, đó là lý do tôi mập." Sau đó, mẹ của Ðổng Vĩnh hỏi mẹ Vương Kỳ tại sao bà lại ốm như vậy dù giàu có và ăn ngon. Mẹ của Vương Kỳ trả lời rằng: "Con của tôi không thật thà, không đúng đắn, thường xuyên làm những việc phi pháp. Hôm nay bị kỷ luật, ngày mai lại được gọi đến phủ để trách phạt. Tôi lo lắng cho con từ sáng đến tối, dù ăn uống cách mấy cũng không cảm thấy hạnh phúc. Từ sáng đến tối, tôi lo lắng và buồn bã. Vì vậy, tôi ngày càng yếu đi, không thể tăng cân và tôi trở nên ốm hơn. Mọi chuyện đều vì buồn bã này..."
Dù có viễn hiếu, cận hiếu, đại hiếu, tiểu hiếu, hiếu thảo chân chính chỉ có thể đạt được khi chúng ta hành trì pháp. Đây mới là sự hiếu thảo đúng đắn nhất.
"Trích cuối tập 9 Kinh Ðại-Bửu-Tích Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ này để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời này và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát. Chùa Vạn Ðức Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ. (08-10-1989) Thích Trí Tịnh Cẩn Chí