Năm 1952, lúc mới tròn 12 tuổi, sau khi hoàn tất tiểu học, nhờ sự ảnh hưởng của Phật pháp và vì sống gần chùa, Hòa thượng đã được hướng dẫn vào đạo và trở thành một tu sĩ theo học cùng Sư trưởng Như Thanh, người lúc đó là trụ trì tổ đình Hội Sơn.
Từ năm 1953-1957, ngay sau khi tốt nghiệp phổ thông, Hòa thượng tiếp tục nghiên cứu Phật giáo tại tổ đình Phước Tường và chùa Huê Nghiêm, nơi ông được học hỏi từ những giảng dạy của các vị đạo sư danh tiếng, mở ra cơ hội phát triển cho sự truyền bá và khám phá sâu sắc hơn về Phật pháp.
Năm 1958, Hòa thượng được ngài Thiện Hòa (nguyên là trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Nam Việt, Viện chủ tổ đình Ấn Quang) chỉ định nhận lãnh giới Sa di tại Giới đàn chùa Pháp Hội và từ đó, ông trở thành một trong những Tăng ni nổi bật của giới đạo.
Năm 1964, ở tuổi 24, Hòa thượng chính thức trở thành Tăng ni và dấn thân vào hàng Tăng bảo. Từ đó, ông không ngừng công hiến để giúp đỡ người khác hiểu rõ hơn về Phật pháp và giảm đi nỗi đau khổ của họ.
Năm 1969, Hòa thượng tốt nghiệp cử nhân môn toán và được vinh danh là xuất sắc trong "Khóa tu nghiệp tân toán học" do Hội Giáo sư Toán Việt Nam và Tổng Vụ Văn hóa Giáo dục Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tổ chức.
-
Từ năm 1969-1975, Hòa thượng được giao trách nhiệm làm giáo thọ chuyên toán tại các trường trung học Bồ Đề Sài Gòn-Chợ Lớn và trường trung tiểu học Kiều Đàm. Nhờ đó, ông không chỉ truyền đạt kiến thức Phật giáo mà còn giúp học sinh hiểu về đạo Phật và xây dựng cuộc sống hạnh phúc và an nhàn.
-
Từ năm 1975-1980, Hòa thượng được bổ nhiệm làm thư ký Ban Đại diện Phật giáo quận 5, Chợ Lớn, và đã thực hiện nhiều công việc quan trọng cho Giáo hội.
-
Từ năm 1980-1984, ông trở thành giáo thọ của lớp Sơ cấp Phật học Thiện Hòa tại chùa Giác Ngộ và lớp Trung cấp Phật học Ấn Quang. Ông đã truyền dạy Phật pháp qua môn toán cho nhiều thế hệ Tăng ni và hiện nay, nhiều học trò của ông đã đảm nhận vai trò quan trọng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
-
Từ năm 1987-2002, trong suốt 3 nhiệm kỳ, nhờ sự đam mê và thành tựu trong công việc Phật sự, Hòa thượng được bổ nhiệm là Chánh Đại diện Phật giáo quận 10 và Ủy viên Thường trực Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh.
Năm 2002-2007, ngài đảm nhận vai trò Phó Thư ký và Chánh Văn phòng Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh.
Năm 2007-2012, tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng được bầu làm Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương. Tại Đại hội đại biểu Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, với uy tín và sự phục vụ tận tụy trong hạnh phúc Phật pháp, ông được bầu làm Phó Trưởng ban Trị sự và Chánh Thư ký Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh. Trong vai trò này, ông đã giúp đỡ các tự viện trong việc quản lý và thực hiện các hoạt động Phật sự một cách hiệu quả.
Với niềm đam mê và sự tận tụy với đạo Phật, Hòa thượng đã được bổ nhiệm làm trụ trì và viện chủ của nhiều chốn tổ già lam với uy tín Phật giáo lớn lên như chùa Ấn Quang, chùa Thiện Mỹ và chùa Bảo Tâm. Ông cũng đã đóng góp vào việc trùng tu và xây dựng nhiều công trình kiến trúc quan trọng tại các chùa mà ông trực tiếp quản lý.
Dưới sự hướng dẫn và nhận lãnh đạo của Hòa thượng, cộng đồng Tăng ni và Phật tử tại tổ đình Ấn Quang và các tự viện trên khắp đất nước đã có những tiến bộ vượt bậc về đức tin và kiến thức Phật pháp. Chùa Ấn Quang trở thành một biểu tượng văn hóa, tôn giáo và từ thiện tại TP. Hồ Chí Minh.
Suốt cuộc đời tu hành và hóa đạo, Hòa thượng luôn tỏ ra là một người con Phật, sống theo nguyên tắc Giới Định Tuệ, tập trung vào tâm tình và tư duy tỉnh giác để phục vụ Tam bảo và giúp đỡ chúng sinh. Hàng ngày, ông dạy bảo công việc cần làm một cách rất cẩn thận. Với tinh thần chánh niệm và nụ cười an nhiên, Hòa thượng tạo nên một môi trường giao tiếp thân thiện và thân quen. Tăng ni và Phật tử luôn tôn trọng cuộc sống tôn giáo và đạo đức của ông.
Hòa thượng luôn dành thời gian suy nghĩ, kiên định lập trường và tìm ra những phương pháp phù hợp để hiện đại hóa cách thức quản lý Giáo hội. Ông luôn tin tưởng câu nói của cố Hòa thượng Thích Trí Thủ "Những gì tôi làm cho Đạo pháp tức là làm cho Dân tộc. Những gì tôi làm cho Dân tộc tức là làm cho Đạo pháp" và áp dụng triết lý này trong cuộc sống tu hành của mình.
*Để ghi nhận và trân quý những đóng góp vô cùng quý báu của Hòa thượng trong tuổi đời phụng sự, lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng với Nhà nước đã tặng ông nhiều bằng khen và bằng tuyên dương công đức. Một số bằng khen và bằng tuyên dương nổi bật như:
- Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.
- Bằng khen của Ban Tôn giáo Chính phủ.
- Bằng khen của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Bằng khen của Ủy ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
- Bằng khen của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP. Hồ Chí Minh.
- Bằng Tuyên dương công đức của Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- Bằng Tuyên dương công đức của ban trị sự giáo hội phật giáo việt nam TP. Hồ Chí Minh; và nhiều bằng khen khác.*
Cùng với sự tiếp tục công việc giảng dạy, Hòa thượng đã không ngừng tu hành và phục vụ, cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời. Dù sức khỏe ngày càng suy yếu, ông không sợ hãi bệnh tật và cái chết. Hàng ngày, Hòa thượng vẫn sống trong lời kinh và chuỗi niệm Phật, tập trung tâm tư vào sự mòn mỏi của cơ thể.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 2013, sau 74 năm trụ thế và 50 mùa tu hành, Hòa thượng qua đời một cách thanh thản tại tổ đình Ấn Quang. Công đức tu hành, hiến dâng và phục vụ Phật pháp đã để lại trong lòng những người theo đạo, Tăng ni và Phật tử một tình yêu và kính trọng vô hạn.
Chúng ta luôn tưởng nhớ và biết ơn vì những đóng góp cao quý của Hòa thượng Thích Nhật Quang trong sự phát triển của Phật giáo Việt Nam và sự nghiệp cộng đồng.