Cuộc đời của hòa thượng Vô Nhất, hay còn được biết đến với bút hiệu Liên Du và tên thật Nguyễn Nhựt Thắng, bắt đầu từ năm 1926 tại làng Bình Xuân, quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công. Ông là con thứ mười của cụ Nguyễn Văn Hương, một bậc túc nho, và cụ bà Giác Ân Trần Thị Dung. Thậm chí, trong thời gian ông mang thai, cụ bà đã tử tế làm công quả tại ngôi chùa nhỏ trong làng. Có lẽ do công đức của ông đã khiến điều này xảy ra.
Từ khi còn nhỏ, ông đã không thích chạy giỡn, chơi đùa nhưng lại thích thắp hương, bái xá và theo thân phụ học chữ Nho. Đến khi ông 9 tuổi, ông đã có thể đọc trôi chảy các sách Nho học như Tứ thư và các bộ truyện Trung Hoa, cũng như viết chữ Hán khá lưu loát. Bên cạnh việc học chữ Hán, ông còn học tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ.
Từ khi ông 7 tuổi, sau cái chết rất trẻ của một thiếu niên trong xóm, ông đã bắt đầu có những ưu tư về lẽ sống chết. Vào khoảng năm 1935, khi ông 10 tuổi, trong lúc đang cắt cỏ ruộng với thân phụ, ông đột ngột hóa thành phật ấn và thày trì chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho) đi ngang. Ông ngay lập tức chạy tới ba lượt đánh lễ Phật. Phật ấn huyền ký về sau đứa trẻ kỳ lạ này sẽ xuất gia và nhắc nhở gia đình không nên ngăn cản.
Cuối năm 1937, sau khi hoàn tất bậc Tiểu Học, ông xin phép cha lên Mỹ Tho và nghỉ tại chùa Vĩnh Tràng để tiếp tục học chữ và Đông Y. Chính trong thời gian này, ông đã tận dụng thời gian rảnh rỗi để tự trau giồi nội điển cũng như tham học Phật pháp với bổn sư Hoa Thường Phật Ấn. Hoa Thường đặt cho ông pháp danh là Trí Hiền. Do cơ duyên, ông cũng được học theo nghề thuốc với một vị Đông Y Sĩ nổi tiếng ở Mỹ Tho thời đó là thầy Tế An Đường và các vị đại phu nổi tiếng khác.
Đến năm 1943, ông đã lấy được bằng Thành Chung (tương đương Trung Học Đệ Nhất Cấp sau này). Trở về quê nhà, ông vừa hốt thuốc cho thân mẫu đang lâm bệnh vừa giảng dạy Phật pháp cho anh thân và anh em ruột thứ năm. Dưới sự khuyến hóa của ông, gia đình ngoài đã biết thờ Phật và tu niệm.
Năm 1945, sau khi cầu thịnh xin xuất gia không được cha chấp nhận, ông đã lén trốn đi, tìm đến chùa Sắc Tứ Linh Thứu ở Xoài Hột để xin xuất gia với Hoa Thượng thường Thành hạ Đạo. Ông được thọ sư Di Giới với pháp danh là Thiền Tâm.
Nhận thấy sư di Thích Thiền Tâm sẽ là một bậc lông tưởng cho Phật Giáo Việt Nam sau này, Hoa Thường Linh Thứu đã thuyết phục ông lên Sài Gòn, tìm đến Hoa Thượng viện chủ Tổ Đình Ấn Quang thượng Thiện hạ Hoa để xin gia nhập Phật Học Viện Liên Hải (chùa Sưng Đức) để học chương trình Trung Đẳng Phật Học từ năm 1948 đến năm 1950.
Năm 1950, ông thọ Cúc Độ và cầu pháp nơi Viện Chủ Tổ Đình Ấn Quang kiêm đốc giáo Phật Học Đường Nam Việt là Hoa Thường Thiện Hoa. Khi chương trình Cao Đẳng Phật Học khóa 1 được khai giảng, do thành tích học tập xuất sắc, ông được chọn vào lớp Tăng Sinh đầu tiên. Dù chỉ mới 24 tuổi, ông đã được ban giáo thọ tin cậy, giáo đảm nhiệm chức vị Trưởng Tràng. Trong quá trình học tập, ông luôn nổi bật về mọi phương diện học vấn, tài đức, khả năng, thiện chí.
Khi khóa học hoàn tất vào năm 1954, trong số hơn 100 học sinh đang theo học tại Huệ Nghiêm, chỉ có 13 người được tốt nghiệp, ông được xếp hạng Tối Ưu. Sau khi tốt nghiệp, ông được ban giảng sư Phật Học Đường Nam Việt giáo trách nhiệm hương dưỡng Tịnh Độ. Ông đã khẩn nài các vị tôn túc cho ông được nhập thất chuyên tu Tịnh Độ một thời gian để có thể hoàn thành trách nhiệm ấy; nhưng các vị tôn sư chỉ hứa khả cho ông nhập thất trong một thời gian ngắn và phải xuất quân bất cứ khi nào giáo hội cần đến ông.
Trở về Mỹ Tho, ông lập cốc tại Cái Bè để chuyên tu Tịnh Nghiệp suốt năm năm (1955-1960). Trong thời gian ẩn cư này, dù gặp nhiều chướng ngại đồng dao, ông vẫn tinh cần tu tập, đồng thời biên dịch kinh và các tác phẩm quốc tống làm tư liệu cho Tịnh Độ học nghệ Việt Nam.
Các tác phẩm của Hòa thượng Thích Thiền Tâm để lại:
- Kinh Quán Vô Lượng Thọ.
- Tịnh Học Tân Lương.
- Lá thư Tịnh Độ.
- Hương Quê Cực Lạc.
- Phật học Tinh yếu.
- Duy Thức Học Cương yếu.
- Tịnh Độ Thập ngữ luận.
- Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni.
- Niệm Phật Thập yếu.
- Tây Phương Nhật Khóa.
- Tịnh Độ Pháp Ngã.
- kinh phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni.
- Mấy điệu sen thành.
- Tâm Bảo Cảm ứng lục.
Ở thực tế chỉ 68 năm sống trên cõi trần gian và thực sự tu hành chỉ 42 năm nhưng Hòa thượng đã đóng góp rất lớn vào kho tàng văn hóa Phật Giáo Việt Nam. Chỉ bằng những tác phẩm của mình, ông đã hóa độ bao nhiêu tứ chúng hữu duyên, huỳnh hồ là những ai có cơ duyên gặp gỡ, đích thân lãnh thọ sự giáo hóa của ông. Ông không chỉ giáo hóa bằng ngôn giáo mà còn bằng cả thân giáo. Cảm ơn Ông thật nhiều!