hòa thượng thích thiện tâm - một người tu hành đã trải qua 76 năm trong chặng đường đời mình. Sinh năm 1947 tại làng Dạ Lê thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, Hòa thượng đã từng trưởng thành trong một gia đình sùng đạo Tam Bảo. Ông là con của Cụ Ông Nguyễn Thanh May và Cụ Bà Nguyễn Thị Lịch, sau này ông trở thành tu sĩ Diệu Phúc. Chính anh trai của Hòa thượng, Hòa thượng Thích Mật Nhơn, cùng với Hòa thượng Thích Mật Hiển, đã cùng nhau tu học tại chùa Trúc Lâm TP. Huế.
Năm 1953, Hòa thượng xuất gia theo trường phái Phật giáo Bắc Tông và tu học tại Chùa Từ Quang do Hòa thượng Tương Ưng trụ trì. Trong thời gian này, Hòa thượng đã được học tại Trường Diệu Hạnh dưới sự dẫn dắt của Sư Bà Diệu Không và Bà Tham Ngô; sau đó, ông tiếp tục học tại Trường Hàm Long chùa Bảo Quốc.
Năm 1958, Hòa thượng chuyển sang trường phái Phật Giáo Nam Tông (Nguyên Thủy) và tiếp tục tu học tại Chùa Tăng Quang với sự hướng dẫn của Hòa thượng Hộ Nhẫn, Hòa thượng Pháp Quang, Hòa thượng Pháp Thanh, hòa thượng giới nghiêm và Thượng tọa Giới Hỷ. Trong thời gian tu học tại đây, Hòa thượng cũng theo học tại Trường Gia Hội và Trường Nguyễn Du.
Đến năm 1963, trong lúc Ban Liên Lạc Phật giáo Yêu Nước Trung Ương đã có chuyến tham và thuyết pháp tại miền Trung, Hòa thượng Thiện Tâm đã gặp gỡ Hòa thượng Tăng Thống Bửu Chơn tại Chùa Diệu Đế và Chùa Tăng Quang. Đó là thời điểm Hòa thượng Tăng Thống Bửu Chơn đã tiến hành lễ xuất gia cho Thiện Tâm, người đã trở thành tu sinh đầu tiên được xuất gia tại Chùa Tăng Quang, Huế.
Sau khi xuất gia, Hòa thượng đã theo bổn sư và tiếp tục tu học ở miền Nam, tại Chùa Phổ Minh và Chùa Phước Hải VT. Ông đã có thời gian ở nhiều chùa khác như Tam Bảo Đà Nẵng (1962), Chùa Phước Hải Tinh Tiền Giang (1964), Chùa Tam Bảo Thiền Đường VT (1970), Chùa Phật Bảo (1972), Chùa Kỳ Viên (1975-1978), và đồng thời là trụ trì Chùa Phước Hải VT và tham gia GHPGVNTN từ năm 1966 đến 1975. Trong thời gian này, Hòa thượng đã được học tại các trường Tân Phương Giáo Đức, Trường Thánh Giuse VT, Trường Tam Nguyên (VT), Hội Việt Mỹ (VT), Trường Đại Học Vạn Hạnh trước năm 1975 (Phổ biến Giáo dục và Phật Học), Trường ĐH Sư Phạm sau năm 1975 (Khoa Ngoại Ngữ Anh), và cũng như tiếp tục học cao học và nghiên cứu sinh tại Trung Tâm Ứng Dụng Khoa Học Tâm Lý và Tâm Lý Phía Nam thuộc Viện Khoa học Tâm Lý Giáo Dục Việt Nam. Ông đã tốt nghiệp Thạc sĩ và Tiến sĩ Giáo dục học do Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp. Hòa thượng cũng đã được trường Đại học Maha Chulalongkorn của Thái Lan tặng bằng Tiến sĩ Phật học Danh Dự, và Chính phủ cùng Giáo Hội Phật Giáo Myanmar đã tặng cho ông danh hiệu danh dự Mahasaddhamma jotikadhaja (Đại chiếu quang Chánh Pháp sư).
Trước khi vào mùa Phật, vào năm 1966, Hòa thượng đã được thọ Đại giới cụ túc tại Sìmà Phổ Minh do Hòa thượng Bửu Chơn làm đàn đầu, và sự trợ giúp của Hòa thượng Tăng Lương và TT. Duyên Hạnh.
Kể từ khi miền Nam hoàn toàn giải phóng vào năm 1975, trong một tình hình hoà bình, Hòa thượng đã tích cực tham gia vào Ban Liên Lạc Phật giáo Yêu Nước của quận Gò Vấp và thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, ông không ngừng nỗ lực trong việc tu học, rèn luyện bản thân và nâng cao trình độ học vấn, tham gia và đóng góp vào nhiều lĩnh vực hoạt động phục vụ cho Giáo Hội và Xã Hội. Mặc dù đã trải qua tuổi thất thập cổ lai hy và sắp bước sang tuổi 76, (theo giấy tờ là 72), sau hơn 69 năm sống trong chùa, Hòa thượng Thiện Tâm vẫn kiên cường và không ngừng phấn đấu vì lý tưởng sống vì phụng sự đạo pháp và phục vụ dân tộc. Ông mong muốn trở thành một tấm gương sáng cho các thế hệ tiếp theo.