Trên con đường tu học Phật giáo, chúng ta sẽ gặp phải nhiều pháp môn phương tiện khác nhau. Nhưng liệu bạn đã hiểu rõ nguồn gốc và ý nghĩa của chúng? Trên thực tế, các pháp môn này đều có nguồn gốc từ "Tứ tất đàn", hay còn gọi là "đạo Phật pháp môn". Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về "Tứ tất đàn" và vai trò quan trọng của nó trong Phật giáo.
Thế giới tất đàn - Thành tựu đối với thế gian
"Thế giới tất đàn" có nghĩa là thành tựu đối với thế gian. Đức Phật có cái nhìn tỏ rõ về thế gian và các pháp thế gian, cho phép Ngài chuyển hóa và đưa các chúng sinh từ thế gian về với Đạo Phật, về với sự giác ngộ. Đức Phật ứng dụng Pháp này vào trong thế gian, tức là tùy thuận theo các pháp của thế gian để giảng dạy giáo pháp do tự thân Ngài chứng ngộ. Chẳng hạn, thế gian là vô thường thì Ngài nói là vô thường, và Ngài đã sử dụng những ngôn ngữ của thế gian để diễn tả những tính chất vô thường ấy của các pháp thuộc về thế gian như là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, như là khổ đế, tập đế v.v. Chính những pháp này gọi là pháp thế gian.
Đức Phật đã thành tựu khi diễn giảng giáo pháp này đến cho những người trong thế gian hiểu, để từ đó họ chuyển cái tâm mê lầm của họ thành tâm giác ngộ, tâm phàm phu thành tâm bậc Thánh, tâm chúng sinh thành ra tâm Phật. Chuyển hóa được như vậy là nhờ đức Phật đã sử dụng "Thế giới tất đàn". Và sau khi chuyển hóa như vậy, tùy thuận để thuyết pháp như vậy, Đức Phật đã đưa họ về với Đệ nhất nghĩa đế tức là chân lý rốt ráo.
Vị nhân tất đàn - Sự thuyết pháp, hoằng pháp đối với từng người
"Vị nhân tất đàn" nghĩa là sự thuyết pháp, hoằng pháp, làm việc đạo thành tựu đối với từng người, đối với từng đối tượng. Việc thuyết pháp đó là vì con người mà nói, vì con người mà diễn giảng chánh pháp, vì con người mà làm việc đạo. Muốn vì con người mà làm việc đạo để giúp cho họ được thành công thì phải hiểu tâm lý của họ, phải hiểu rõ hoàn cảnh của họ, phải hiểu rõ nghiệp báo, nhân duyên, nhân quả của họ để chuyển vận bánh xe chính pháp giúp họ, giúp họ tiến bộ, xả bỏ được khổ đau trong đời sống để đi tới với đời sống hạnh phúc; giúp họ giải thoát khỏi những trói buộc để đi đến với đời sống tự do đích thực; giúp họ thoát khỏi sự chậm tiến, đi tới với đời sống tiến bộ, văn minh.
Do đó, "Vị nhân tất đàn" nghĩa là khi mình thuyết pháp cho ai, thì phải hiểu được người đó, hiểu được tâm lý, trình độ của họ, phải hiểu được nhân duyên hoàn cảnh họ đang sống, thì mình mới giúp họ thoát khỏi được tình trạng của họ. Ngày xưa, Đức Phật thuyết pháp, giáo hóa thành tựu là do Ngài trình bày Pháp một cách thực tiễn và phù hợp với từng căn cơ, hoàn cảnh của từng người. Đối với người có căn cơ thấp, Ngài dạy giáo lý vừa phải cho họ để họ có thể thực tập được giáo pháp của Ngài ngay trong điều kiện của mình. Đối với người có căn cơ cao thì Ngài cũng trình bày giáo lý theo căn cơ của họ và phù hợp với điều kiện thực tập của họ. Có những người căn cơ cao, nhưng điều kiện thực tập không có, hoàn cảnh không thuận lợi, Ngài cũng biết rõ để giúp, để chỉ cho họ cách hành trì Pháp hiệu quả. Như vậy gọi là "Vị nhân tất đàn".
Ngày xưa, Đức Phật đã từng giáo hóa những nhà ngoại đạo, giúp họ trở về với Phật. Thậm chí, các giáo chủ tôn giáo khác cũng được Đức Phật giáo hóa, chẳng hạn như ba anh em ngài Ca Diếp, đều là giáo chủ của đạo thờ Thần Lửa, đều có đông đảo quần chúng. Khi đã giáo hóa được Ngài Đại Ca Diếp, nhưng còn hai người em của Ngài vẫn đang còn đi theo tà kiến, nên Đức Phật biết rất rõ những khó khăn mà Ngài Đại Ca Diếp sẽ gặp phải khi đi theo mình. Biết được như vậy, nên Đức Phật đã có cách hỗ trợ, giúp đỡ, giáo hóa thích hợp khiến cho Ngài Đại Ca Diếp quay về được với Phật pháp mà không bị một trở ngại nào. Sự giáo hóa thành công của Đức Phật đối với ba anh em Đại Ca Diếp là do Đức Phật đã sử dụng pháp "Vị nhân tất đàn".
Đối trị tất đàn - Chuyển hóa và trị liệu
"Đối trị tất đàn" có nghĩa là chuyển hóa thành tựu hay đối trị thành tựu. Pháp Đức Phật dạy nhắm tới chuyển hóa những phiền não nơi tâm chúng sinh. Mọi phương pháp mà Đức Phật dạy, Ngài nói bằng cách này hay bằng cách khác, là nhằm mục đích làm cho người nghe, hiểu, thực hành được và chuyển hóa những phiền não ở nơi tâm họ. Pháp của Phật trình bày giống như lương dược, là diệu dược mà tùy theo bệnh trạng, thực hành Pháp đó sẽ được chuyển hóa, đưa lại sự an lạc của thân và tâm. Đối với những chúng sinh đầy sân hận, Đức Phật dạy cho họ pháp từ bi, thực hành tâm từ bi, thương người như thể thương thân. Mình thương người khác chính là mình đang thương thân thể mình. Mình thương cuộc đời cũng chính là đang thương mình. Mình giận người khác, là mình đang gây thiệt hại cho chính mình. Khi mình làm cho ai khổ đau, thì bản thân mình khổ đau trước người đó.
Đức Phật đã nhìn sáu trần, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, Ngài thấy từ bản chất cho đến hiện tượng của chúng một cách như thực và Ngài nói sự thực đó cho chúng sinh trong thế gian và chúng sinh trong thế gian lĩnh hội được những gì do Ngài trình bày, nên gọi là “Thế gian tất đàn”. Ở trong Pháp Tứ diệu đế, Đức Phật nói: đây là “Khổ thánh đế”; đây là “Tập thánh đế”. Đây là “Khổ thánh đế”; đây là “Tập thánh đế”, đó là pháp thế gian. Đức Phật nói "đây là Khổ thánh đế" mà thế gian nhận ra được; "đây là Tập thánh đế" mà thế gian nhận ra được và đoạn trừ được “tập đế” để xa lìa “khổ đế”. Với cách thuyết pháp như vậy, đức Phật đã thành tựu về “Thế giới tất đàn”. Và chính nơi những pháp thế gian này, Đức Phật lại chỉ rõ nhân duyên sinh khởi và bản thể không sinh không diệt của mỗi pháp, khiến cho những người trong thế gian khi nghe Phật pháp liền sinh được chính kiến, liền sinh khởi được chính trí và sinh ra hỷ lạc, sinh ra niềm vui lớn và khởi tâm tu tập, đoạn trừ các phiền não; sinh ra đời sống giải thoát ngay ở trong thế gian này, ngay trong thế giới này.
Đệ nhất nghĩa tất đàn - Sự thành tựu tối thượng
"Đệ nhất nghĩa tất đàn" tức là sự thành tựu tối thượng. Đó là sự thành tựu tuyệt đối. Đó là mục đích hoằng Pháp của Đức Phật. Nên Đức Phật thuyết pháp bằng “Thế giới tất đàn”, bằng “Vị nhân tất đàn”, bằng “Đối trị tất đàn”, với mục tiêu cuối cùng là để hiển thị “Đệ nhất nghĩa tất đàn”. Nghĩa là Đức Phật thuận theo thế gian để làm gì, thuận theo từng người để thuyết pháp, nhằm mục đích gì, đối trị với từng căn bệnh phiền não, sở tri của từng người để làm gì? Để đưa họ đi về với Đệ nhất nghĩa tất đàn, tức là cuối cùng sẽ hiển thị cho họ thấy được chân lý tuyệt đối.
Chân lý tuyệt đối mà Đức Phật giảng cho mọi người, nói cho mọi chúng sinh là gì? Đó là "tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật". Muốn thành Phật thì phải chứng nhập Phật tính. Muốn chứng nhập Phật tính thì phải từ nơi tâm bồ đề hay từ nơi bản giác mà phát khởi đại nguyện lợi hành, giáo hóa hết thảy chúng sinh bằng phương pháp này hay phương pháp khác. Giáo hóa nhưng không mắc kẹt vào nơi phương pháp giáo hóa, nơi hình thức giáo hóa, khiến cho chúng sinh được giáo hóa đi tới được với chân lý tuyệt đối, với hạnh phúc an lạc. Đó là “Đệ nhất nghĩa đế tất đàn”.
Nếu bạn muốn hiểu rõ hơn về "Tứ tất đàn" và những pháp môn phương tiện trong Phật giáo, hãy tìm hiểu và nghiên cứu sâu sắc về chúng. Qua đó, bạn sẽ có được cái nhìn toàn diện và sâu sắc về con đường tu học Phật giáo. Chúc bạn có một hành trình tu học trọn vẹn và an lạc.