Lục tổ Huệ Năng, còn được gọi là Tuệ Năng, là một vị Tổ Thiền Tông quan trọng trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Sinh năm 638, Huệ Năng có họ Lư và là con cháu của người Phạm Dương. Cha ông là Hành Thao, đã làm quan bị giáng tới Tân Châu ở Nam Hải và định cư ở đây. Ông mồ côi cha từ khi mới 3 tuổi và mẹ nuôi nấng ông đến khi ông trưởng thành. Nhưng gia đình ngày càng nghèo túng, buộc ông phải làm nghề đốn củi để nuôi mẹ.
Một ngày, khi đang đến chợ với gánh củi, ông nghe một người đang tụng kinh Kim Cương. Với sự tò mò, ông hỏi người đó biết chỗ sở đắc nằm ở đâu. Người đó chỉ cho ông núi Hoàng Mai (Đông Sơn), Kì Châu nay thuộc tỉnh Hồ Bắc yết kiến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Ngũ Tổ nhận biết ông là người đặc biệt và sai ông vào nhà ngang giã gạo, đồng thời gọi ông là Lư hành giả.
Khoảng tám tháng sau, Ngũ Tổ cho biết đã đến lúc truyền phó chính pháp và yêu cầu mỗi người trong hội viết một bài kệ đắc pháp. Trong hội, có một Đại đệ tử của Ngũ Tổ là Thượng tọa Thần Tú, người được mọi người ngưỡng mộ vì uyên bác và học tập giỏi. Mọi người đều nói rằng: "Nếu không có Thượng tọa Tú, ai sẽ đảm đương?"
Thần Tú nghe lời khen và không suy nghĩ lâu, liền viết lên tường một bài kệ:
"Thân thị Bồ đề thụ, Tâm như minh kính đài. Thời thời cần phất thức, Mạc sử nhạ trần ai."
Nghe xong, Lư hành giả nói: "Theo chỗ sở đắc của tôi, thì không phải như vậy". Tuy nhiên, ông cho rằng mình còn trẻ, không tiện đối đáp ngay, vì vậy ông chờ đến đêm để nhờ một chú tiểu viết giúp mình một bài kệ ở bên cạnh bài kệ của Thần Tú:
"Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài. Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai."
Ngũ Tổ đọc bài kệ này và nói: "Kệ này ai viết đây? Mình không thấy được tính chất của bài kệ này". Mọi người đồng ý và không để ý tới bài kệ nữa.
Vào đêm đó, Ngũ Tổ sai một người đến nhà đoạn giã gạo và triệu Lư hành giả vào thất bảo trao pháp bảo cùng áo cà sa. Lư hành giả quỳ xuống nhận pháp và áo, sau đó hỏi: "Pháp, tôi đã nhận, vậy y tôi sẽ trao cho ai?"
Ngũ Tổ trả lời: "Xưa kia, khi Tổ Đạt Ma đến đây, vì chưa có ai tin tưởng nên phải truyền y cho một người làm biểu minh đắc pháp. Nay mọi người đã tin tưởng, chiếc y này sẽ trở thành vật tranh giành. Vì vậy, khi gặp ông, chúng ta dừng lại, không truyền nữa. Ông nên ẩn mình ở nơi xa, đợi thời cơ để hành đạo. Vì người nhận y, mạng như tơ mành."
Lư hành giả hỏi: "Thầy ơi, tôi nên ẩn mình ở đâu?"
Ngũ Tổ trả lời: "Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn."
Sau khi kết thúc lễ chân Tổ, Huệ Năng mang y đi và trong đêm đó, ông đi xa về phương Nam mà không có ai hay biết.
Cách đây hơn 10 năm, vào ngày 6 tháng Giêng năm Bính Tý, Huệ Năng đến Nam Hải để gặp Pháp sư Ấn Tông tại chùa Pháp Tính và được thế độ để xuất gia. Hai ngày sau đó, Trí Quang luật sư ở chùa Pháp Tính là người thụ lễ Cụ túc giới cho Huệ Năng.
Sau đó, Huệ Năng nói cùng môn nhân rằng ông không muốn lưu lại ở đây mà muốn trở về nơi ẩn khi xưa. Ấn Tông và hơn ngàn người tăng, tục đã cùng nhau làm lễ tiễn đưa Huệ Năng về chùa Bảo Lâm, Tào Khê và truyền thuyết pháp yếu mà không truyền y bát, từ đó hình thành phái Nam tông Thiền tông.
Do giáo phái của Huệ Năng không lập văn tự, giới sĩ phu và văn nhân đã hoan nghênh ông. Đệ tử của ông cũng đề cao Huệ Năng, khiến cho phái Nam tông Thiền Tông trở thành chính thống của Thiền Tông Trung Hoa. Huệ Năng đã được mời đến thuyết giảng Phật pháp tại chùa Đại Phạm trong thành, và lời giảng của ông đã được ghi lại thành bộ Đàn kinh (còn gọi là Pháp bảo Đàn kinh hay Lục tổ Đàn kinh). Công trình này đã định hướng cho tư tưởng Phật giáo trong nhiều thế kỷ ở Trung Hoa.
Sau đó, Lục tổ trở về Tào Khê và tiếp tục truyền bá đại pháp. Học giả thường không dưới ngàn người đến nghe giảng của ông.
Cuối cùng, vào ngày 3 tháng 8 năm Nhâm Tuất (năm 713) trong thời Đường Huyền Tông, Huệ Năng qua đời tại chùa Quốc Ân ở Tân Châu, thọ 76 tuổi. Mọi người đã đưa ông nhập tháp tại Tào Khê. Huệ Năng được vua Đường Hiến Tông ban thụy là Đại Giám Thiền sư, và Tháp hiệu Nguyên Hòa Linh Chiếu.
Thiền Tông Trung Hoa truyền thừa y bát đã kéo dài qua sáu đời. Trong số đó, hai vị Tổ có ảnh hưởng lớn nhất là Bồ Đề Đạt Ma và Huệ Năng. Bồ Đề Đạt Ma là vị tổ thứ 28 tại Ấn Độ, đã đem hạt giống Thiền Tông sang Trung Hoa vào khoảng năm 520. Ngài đặt nền móng cho Thiền Tông tại Trung Hoa và được coi là Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Sau đó, Bồ Đề Đạt Ma truyền y bát cho Huệ Khả, tức là vị tổ Thiền Tông thứ hai. Kế đến là các vị tổ khác như Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn và Huệ Năng. Tổ Huệ Năng là vị tổ thứ sáu trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa và có vai trò rất quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc của Thiền Tông. Cuộc đời và công việc truyền pháp của Tổ đã được ghi lại trong kinh "Pháp Bảo Đàn". Cho tới nay, sau hơn một ngàn ba trăm năm, Thiền Tông Trung Hoa đã chia thành nhiều hệ phái khác nhau, nhưng căn bản do Lục tổ Huệ Năng đặt ra vẫn là nền tảng chỉ đạo cho tất cả các phái.