Trong văn hóa Phật giáo, Kinh A Di Đà là một bản kinh nổi tiếng được truyền thụ hàng ngày trong đời sống đạo của các tín đồ Phật tại các nước Châu Á, đặc biệt là Việt Nam. Kinh mang sứ mạng ca tụng công đức và được tất cả các vị Phật hộ niệm. Trong kinh, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã truyền tải những lời dạy sâu sắc và ý nghĩa.
Nguồn gốc Kinh A Di Đà
Kinh A Di Đà hay còn được gọi là tiểu bản Sukhàvɑtì - vyùhɑ, là một phiên bản tóm tắt của Đại Vô Lượng Thọ Kinh (Sukhàvɑtì - vyùhɑ). Bản dịch tiếng Việt mà chúng ta đang sử dụng là từ phẩm sư Cưu Mã Lạp Thập dịch từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 8 theo lịch Tây.
Ý nghĩa của Kinh A Di Đà
Kinh A Di Đà là một bản kinh ca tụng công đức và cầu nguyện đến Phật A Di Đà. Kinh này mang đến những điều sâu sắc và ý nghĩa. Tuy nhiên, niệm Phật không chỉ đơn thuần là kêu tên Phật mà nó tạo dựng một không gian tâm linh trong lòng chúng ta, nơi không có khổ đau và cảm xúc xao lạc. Cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà được coi như cõi vô thủy vô chông, nơi không giới hạn và không gian.
Nghi thức tụng kinh A Di Đà Việt ngữ
Nghi thức tụng kinh A Di Đà Việt ngữ rất trang nghiêm và cần sự tôn trọng. Dưới đây là một số câu chanted trong nghi thức tụng kinh:
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN:
Án lắm. (7 lần)
TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN:
Tu rị tu rị, ma ha tu rị tu tu rị, ta bà ha. (3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN:
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mã ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
ÁN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN:
Nam mô tâm mạn đạ một đà nằm, án độ rô độ rô, địa vị ta bà ha. (3 lần)
PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN:
Án nga nga nằm tâm bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)
NGUYỆN HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính, Gởi theo đám mây hương. Phủng phất khắp mười phương. Cùng dường ngôi Tâm Bảo, Thề trọn đời giữ đạo, Theo tự tánh làm lành, Cùng pháp giới chúng sinh, Cầu Phật từ gia hộ, Tâm Bồ Đề kiên cố, Xa bể khổ nguồn mê, Chống quay về bờ Giác.
TÁN PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng, Ba cõi chẳng ai bằng. Thầy dạy khắp trời người, Cha lành chúng bốn loài. Quy y tròn một niệm, Dứt sạch nghiệp ba kỳ, Xưng đường cùng tán thán, Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng. Đạo cảm thông không thể bàn, Lưới đế châu ví đạo tràn, Mười phương Phật bảo hào quảng sáng ngời Trước bảo tọa thân con ảnh hiện, Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
ĐẢNH LỄ TAM BẢO
Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lài Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Đường, thường trú Tâm Bảo. (1 lạy)
Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Tạ Bà Giáo chủ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đường Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Bồ Tát, Đại Hạnh phổ hiền bồ tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, đại nguyện Đạt Đạt Vương Bồ Tát, Thành Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy)
TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương xạ nhiệt, Pháp giới mừng hoan. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân, Thành ý phương ân, Chư Phật hiện toàn thân, Nam mô Hoằng Vân Cái Bồ Tát (3 lần)
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
Thiên thu thiên nhãn vô ngoại đại bi tâm đà-lạt-ni. Nam mô hắc ra đát na, đa ra đạ. Nam mô a rị đạ, bà lô yết đế, thước bát ra đạ, Bồ-đề tát đá-lạt bà đạ, ma ha tát đá-lạt bà đạ, ma ha ca lô ni ca đạ, án tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đá-lạt y mông a rị đạ, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đá.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đạ sá mế, tát bà a thá đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đạ, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt thá. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê dị, ma ha Bồ-đề tát đá-lạt, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, dị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà đạ đế, ma ha phạt xà đạ đế, đà ra đà ra, địa ra ni, thất Phật ra đạ, đá ra đá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá đa, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, Bồ-đề đá Bồ-đề đá, Bồ-đà đá, Bồ-đà đá, di đế rị đá, na ra cần trì địa ra sắc ni na, bà đá ma na ta bà đạ.
Tất đà đá ta bà đạ. Ma ha tất đà đá ta bà đạ. Tất đà du nghiệp thất bàn ra đá, ta bà đạ. Na ra cẩn trì ta bà đạ. Ma ra na ra ta bà đạ. Tất ra tăng a mục khê đạ, ta bà đạ. Ta bà ma ha, a tất đà đá, ta bà đạ. Giả kiết ra a tất đà đá, ta bà đạ. Ba đà ma yết tất đà đá, ta bà đạ. Na ra cẩn trì bàn đà ra đá, ta bà đạ. Ma bà lị thanh yết ra đá, ta bà đạ. Nam mô hắc ra đát na, đa ra đạ. Nam mô a rị đạ, bà lô yết đế, thước bàn ra đá, ta bà đạ.
Án tất điện đồ, mạn đạ ra, bạt đà đá, ta bà đạ. (3 lần)
Khai kinh kệ
Vào một lần nọ, Đức Phật đang ở vườn Kỳ Thọ tại Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với 1250 đại Tỳ Kheo. Đây là những người bạn thân thiết của Đức Phật, bao gồm các A La Hán như Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Cơ-Diếp, Mã-Hà Cơ-Chiên-Diên, Mã-Hà Câu-Hy-Lạ, Ly-Bà-Đạ, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Nãn-Đà, A-Nãn-Đà, Lạ-Hầu-Lạ, Kiều-Phạm-Bà-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-Lạ-Đọa, Cơ-Lưu-Đà-Di, Mã-Hà Kiếp Tân Nã, Bạc-Câu-Lạ, A-Nâu-Lầu-Đà, và những người đệ tử đại diện khác. Cùng với đó, còn có các Bồ Tát như Pháp-Vương-Tử, A-Đật-Đạt Bồ Tát, Càn-Đà-Hạ-Đề Bồ Tát, Thưởng-Tinh-Tấn Bồ tát và các Đại Bồ Tát khác. Tất cả đều cùng đến dự hội.
Thế là Đức Phật đã truyền dạy và giới thiệu về vùng đất Cực Lạc, một vị trí đặc biệt trong vũ trụ của vô thượng kim cương. Nơi đó có cảm giác thảnh thơi, không có cảm giác khổ đau và hiểu lầm. Cực Lạc có 7 tầng bảo lợi, được bao quanh bởi 7 hàng cây và sử dụng 4 bảo bối quý giá. Kinh A Di Đà miêu tả đất nước Cực Lạc như một thiên đường trên trần thế.
Kinh A Di Đà là một bản kinh thiêng liêng trong văn hóa Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, khi thực hiện tụng kinh, cần phải nhớ tuân thủ nghi thức và tôn trọng văn hóa tôn giáo.