Kiến thức phật giáo

Di-lan-đà vấn đạo: Cuộc đối thoại thú vị giữa vua Di Lan Đà và tì-kheo Na Tiên

Phap Ngo Thich

Hình ảnh: Vua Di Lan Đà và tì-kheo Na Tiên trong cuộc đối thoại. Di Lan Đà vấn đạo, còn được gọi là Mi Lan Đà vấn đạo (Milindapañhā), là một kinh điển Phật giáo...

Hình ảnh: Vua Di Lan Đà và tì-kheo Na Tiên trong cuộc đối thoại.

Di Lan Đà vấn đạo, còn được gọi là Mi Lan Đà vấn đạo (Milindapañhā), là một kinh điển Phật giáo bằng tiếng Pali, được cho là ghi lại cuộc đối thoại giữa tì-kheo Na Tiên (Nāgasena) và vua Menandros I (Milinda) của Bactria vào thế kỷ thứ 2 TCN. Cuốn sách này mang nhiều tên gọi khác nhau như Kinh Mi Tiên vấn đáp, Na Tiên tì-kheo kinh và Di Lan Vương vấn kinh. "Na Tiên tì-kheo kinh" được tôn sùng trong Phật giáo Miến Điện và được đưa vào Tiểu bộ kinh, một trong năm bộ của Kinh tạng văn hệ Pali. Tuy nhiên, nó không được coi là kinh điển trong Phật giáo Thái Lan hay Tích Lan, mặc dù văn bản Nam tông của nó vẫn tồn tại bằng chữ Sinhala. Bản dịch sang chữ Hán có tiêu đề "Di Lan Vương vấn kinh" tương ứng với ba chương đầu tiên của bản gốc tiếng Pali. Cuốn sách này được dịch vào khoảng thời gian nào đó dưới thời Đông Tấn (317-420).

Theo Di-lan-đà vấn đạo, trong cuộc đối thoại của ông với tì-kheo Na Tiên, đức vua Menandros I đã truyền ngôi cho con và lui về ẩn cư trong tăng viện tu hành, đắc quả A-la-hán.

Lịch sử

Di Lan Đà vấn đạo là cuốn sách thuật lại cuộc đối thoại giữa đức vua Menandros I và tì-kheo Na Tiên. Bộ sách này đã được kết tập ở vùng Bắc Ấn vào khoảng giữa thế kỷ I. Các học giả đồng thuận rằng đây là một công trình được thêm thắt theo thời gian. Sự ủng hộ cho lập luận này được chứng minh bằng việc phiên bản dịch sang chữ Hán của tác phẩm ngắn hơn đáng kể.

Phần sớm nhất của bộ kinh có lẽ đã được viết vào khoảng thời gian giữa năm 100 TCN và 200. Văn bản trong kinh có thể đã được viết bằng chữ Sanskrit. Ý kiến của nhà Ấn học người Đức von Hinüber cho biết văn bản gốc có thể đã được viết bằng tiếng Gandhari dựa trên bản dịch chữ Hán và một số khái niệm độc đáo trong văn kiện. Tuy nhiên, ngoại trừ phiên bản tiếng Pali và dẫn xuất của nó ở Tích Lan, không có phiên bản nào khác được biết đến.

Bản viết tay cổ nhất của bộ kinh bằng tiếng Pali đã được sao chép vào năm 1495. Dựa trên các bằng chứng trong cuốn sách, nhiều phần quan trọng của nó đã bị mất, khiến Di Lan Đà vấn đạo trở thành văn bản tiếng Pali duy nhất được biết là đã được lưu truyền lại dưới dạng không đầy đủ. Bản khắc trên đá cẩm thạch của Di Lan Đà vấn đạo được thông qua tại Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ năm ở Miến Điện và bản in được thông qua vào đại hội lần thứ sáu.

Giáo sư Thomas Rhys Davids đánh giá cao bộ kinh này và cho rằng nó là tác phẩm vĩ đại nhất của văn xuôi cổ điển Ấn Độ:

"Tôi dám nghĩ rằng cuốn Di Lan Đà vấn đạo phải là một tác phẩm văn xuôi tuyệt tác của Ấn Độ; và trên phương diện văn học, đây quả là cuốn sách hay nhất xưa nay so với những sách cùng một thể loại, bất kể đã xuất phát ở một nước nào."

Đặc điểm của bộ kinh này là nó là cuộc giao lưu đầu tiên giữa người Âu-Á, cũng như cuộc học đạo giữa một người phương Tây (vua Menandros) với văn hóa Hy Lạp muốn học hỏi giáo pháp uyên áo của đạo Phật phương Đông qua sự giải đáp của một vị tăng (tỳ kheo Nàgasena) ở thung lũng sông Ấn. Qua đó, Phật pháp được trình bày một cách thuyết phục và dễ nhớ. Với nguồn gốc Hy Lạp, vua Menandros đã đặt nhiều câu hỏi mà người phương Tây thường thắc mắc về các đề tài quan trọng như "Nếu không có linh hồn thì cái gì sẽ tái sanh?" hoặc "Nếu không có cái ta thì ai đang trò chuyện với ngài". Cho nên, với những người Âu muốn tìm hiểu Phật pháp, bộ kinh Di Lan Đà vấn đạo rất gần gũi.

Nội dung

Tác phẩm Mi Tiên vấn đáp được chia thành 3 phần: Dẫn nhập, Nội dung Mi-lan-đà vấn kinh và Sau cuộc vấn đáp. Bản dịch tiếng Việt của Hòa thượng Giới Nghiêm gồm tổng cộng 244 câu hỏi do vua Mi Lan Đà đặt ra được Na-tiên giải đáp được liệt kê trong danh sách dưới đây:

  1. Câu hỏi số 1
  2. Câu hỏi số 2
  3. Câu hỏi số 3
  4. ...

Trong câu hỏi số 18 về Trí và tuệ, vua Menandros đã hỏi rằng: "Trí và tuệ khác nhau như thế nào, thưa đại đức?" Na-tiên đã trả lời rằng: "Trí thuộc về nhận thức, kiến thức, hiểu biết; còn tuệ là thấy rõ vô thường, khổ não và vô ngã. Trí là thông minh mà tuệ là sáng suốt, vậy nó khác nhau, tâu đại vương!"

Đến câu hỏi số 148, vua Menandros đặt câu hỏi vì sao Đức Thế Tôn vẫn để những kẻ phàm tục xuất gia trong giáo hội. Na-tiên trả lời rằng trong giáo hội có những phàm phu tục tử vào tu không vì mục đích cao thượng mà chỉ nhắm đến những mục đích hạ liệt như kiếm miếng cơm manh áo, tích lũy tứ sự cúng dường, đạt vị trí cao, tìm chỗ nhàn hạ, tham vọng lãnh đạo Tăng chúng...

Đức vua Di Lan Đà

Hình ảnh: Đồng bạc với chân dung Đức vua Di Lan Đà (bên trái) và thần Athena (bên phải).

Di Lan Đà, hay Menandros, là một vị vua có thật trong lịch sử, ông trị vì vương quốc Ấn-Hy Lạp từ khoảng năm 165/155 TCN đến năm 130 TCN. Ông là người thiết lập một đế chế lớn ở Nam Á và là một người hộ pháp của Phật giáo. Trong Di Lan Đà vấn đạo, vua Menandros được miêu tả là người có sức học uyên thâm, tài cao chí lớn và là người đạo đức được tôn sùng và ngưỡng mộ.

Sau khi hỏi đạo với tôn giả Na-tiên, vua Menandros đã truyền ngôi cho con và lui về ẩn cư trong tăng viện, hay nói cách khác là xuất gia, tu học và chứng thánh quả A-la-hán.

Xem thêm:

Tham khảo:

  • Gardner, Percy; Poole, Reginald Stuart (1886), The coins of the Greek and Scythic kings of Bactria and India in the British Museum, London: British Museum
  • Halkias, Georgios T. (2014), “When the Greeks Converted the Buddha: Asymmetrical Transfers of Knowledge in Indo-Greek Cultures”, in Wick, Peter; Rabens, Volker (eds.), Religions and Trade: Religious Formation, Transformation and Cross-Cultural Exchange between East and West, Brill Publishers, ISBN 978-90-04-25528-9
  • Kelly, John (2005), Milindapañha: The Questions of King Milinda (excerpts), Access to Insight
  • von Hinüber, Oskar (2000), A handbook of Pāli literature, Berlin [u.a.]: de Gruyter, ISBN 9783110167382
  • Winternitz, Moriz (1920), “Geschichte der indischen Litteratur”, Vol. 2, Die buddhistische Litteratur und die heiligen Texte der Jainas, Leipzig: C.F. Amelang
  • Rhys Davids, Thomas (1894), The questions of King Milinda, Part 2, The Clarendon press

Liên kết ngoài:

1