Chùa Giác Hoàng được vẽ và in trong tập Ngự đề đồ hội thi tập (Dẫn từ Website Trung tâm BTDTCĐ Huế)
Đến với Huế - Kinh Đô Cố Đô, chúng ta không thể bỏ qua danh thắng một thời - Giác Hoàng. Với quy mô lớn, cảnh sắc tuyệt đẹp và sự nổi tiếng của mình, Giác Hoàng từng là một trong 20 cảnh đẹp nổi tiếng đất Thần Kinh. Vua Thiệu Trị đã viết một bài thơ để khắc vào bia đá làm kỷ niệm cho ngôi chùa này. Chùa Giác Hoàng nằm ngay sau cửa Thượng Tứ (Đông Nam môn) trong Kinh thành Huế.
Lịch Sử Ngôi Chùa
Nguyên thủy, đất nền của Giác Hoàng được Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, vị chúa thứ 8 của vương triều Nguyễn, chọn làm trung tâm thủ phủ Phú Xuân (hay còn gọi là Chính Dinh). Sau đó, khi Gia Long lên ngôi, ông đã mở rộng Kinh thành và xây dựng Chính Dinh cho Hoàng Tử Đảm. Vào mùa xuân năm Kỷ Hợi (1839), chùa Giác Hoàng được xây dựng để chuẩn bị cho lễ Ngũ Tuần Đại Khánh và kỷ niệm 20 năm lên ngôi của vua Minh Mạng. Ngôi chùa này trở thành nơi tổ chức các nghi lễ Phật giáo của hoàng gia và triều đình. Đồng thời, Giác Hoàng cũng được biết đến là một điểm tham quan nổi tiếng ở Huế.
Tam Tòa - nơi ngày trước là Quốc tự Giác Hoàng
Vua Thiệu Trị xếp Giác Hoàng là cảnh đẹp thứ 17 của đất Thần Kinh và có viết thơ đề vịnh. Bài thơ "Giác Hoàng phạn ngữ" của vua được khắc vào bia đá bên trái ngôi chùa. Mặc dù bây giờ bia đá này đã thất tán, nhưng vẫn có thể tìm thấy trong các tư liệu cổ nhờ ý chỉ của vua Thiệu Trị.
Những Biến Cố Lịch Sử
Sau gần nửa thế kỷ song hành cùng dòng sông Hương, vào ngày 23/5 năm Ất Dậu (5/7/1885), "Thất Thủ Kinh Đô" đã tạo cơ hội cho quân đội Pháp chiếm giữ Huế. Kể từ đó, chùa Giác Hoàng đã trải qua nhiều biến đổi về công năng. Ban đầu, ngôi chùa được sử dụng làm trại lính. Sau đó, trong thời kỳ Thành Thái, Giác Hoàng bị triệt giải để xây dựng Viện Cơ Mật. Tòa nhà hai tầng được xây ngay giữa trung tâm của ngôi chùa trở thành nơi tụ họp của hội đồng thượng thư Nam Triều, do Khâm sứ Pháp chủ tọa. Phía trước có hai dãy nhà, một dành cho các ông Hội lý người Pháp cùng Bộ Hình và Bộ Lại. Nửa còn lại được sử dụng làm Bảo tàng Kinh tế. Vì có ba tòa nhà như vậy, dân Huế gọi nó là Tam Tòa. Các công năng của cụm kiến trúc này đã thay đổi theo thời gian. Trong giai đoạn từ 1955 đến 1975, đó là tòa án và văn phòng các cơ quan tư pháp địa phương chế độ cũ. Sau năm 1975, nó trở thành trụ sở của Ủy ban Quân quản Trị Thiên Huế, sau đó là trụ sở của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên (1976-1989) và Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (1989-2000). Từ tháng 10/2000 đến nay, đây là trụ sở Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố Đô Huế.
Giếng cổ Thanh Phương
Khi chùa Giác Hoàng bị triệt giải, triều đình đã cho chuyển các pho tượng "Tam thế" và nhiều đồ tự khí sang Gia Hội ở Diệu Đế, cũng là một ngôi Quốc tự ở Huế. Riêng quả Đại hồng chung thì được cất giữ trong kho Vũ Khố. Đến thời Bảo Đại, các pho tượng "Tam thế" được cử hành lễ tại chùa Vạn Phước (Trường An - Huế). Còn quả Đại hồng chung thì nay không biết lưu lạc ở đâu.
Những Ngôi Chùa Phật Nổi Tiếng Biến Mất
Cùng với Giác Hoàng, Linh Hựu Quán cũng là một danh thắng nổi tiếng, là cảnh đẹp thứ 12 trong "Thần kinh nhị thập cảnh". Ban đầu, Linh Hựu Quán được xây dựng để thờ tự đạo Lão. Sau đó, không tìm được vị đạo sĩ nào đủ tài năng đức độ, triều đình đã cho thỉnh các vị cao tăng về và quán trở thành một ngôi chùa, nơi chiêm bái và tổ chức hành lễ của hoàng gia. Tuy nhiên, sau sự biến cố năm 1885, đệ thập nhị cảnh này đã trở thành nhà thờ Tây Linh.
Kết Thúc
Nhắc lại chuyện Giác Hoàng Quốc tự là để chúng ta không bao giờ quên những thời kỳ đen tối trong lịch sử dân tộc. Và để tự hào, trân quý, nâng niu những thành quả chúng ta đang được thụ hưởng ngày hôm nay. Hy vọng rằng sẽ có nhiều người cùng nhau du lịch và tìm hiểu về Giác Hoàng, một phần của di sản văn hóa Huế.